Nhà tâm lý lâm sàng,
nhà trị liệu gia đình, đào tạo viên liệu pháp gia đình tại Bệnh viện Đại học
Leuven (Louvain), Vương quốc Bỉ.
Journal of Family Therapy (2002)
24: 187-204
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN
![]() |
PETER ROBER |
Khi thân chủ tìm đến với việc trị
liệu, họ có những câu chuyện muốn kể. Trong quá trình đối thoại trị liệu
(therapeutic conversation), thân chủ thường xuyên thực hiện việc lựa chọn điều
gì họ muốn kể ra và điều gì họ muốn giữ lại không nói ra. Trong bài viết này,
tác giả sẽ tập trung nói về “vùng giáp ranh” giữa những điều đã được nói và những
điều chưa được nói, và đề xuất ba giả thuyết về thái độ ngập ngừng khi nói của
thân chủ trong các phiên trị liệu gia đình. Trong các giả thuyết này, sự ngập
ngừng được sử dụng như một ẩn dụ (metaphor) để mang đến những ý nghĩa cho các
phát biểu không lời của thân chủ, và việc này được thực hiện theo một cách thức
sao cho có một khoảng không gian được mở ra để đón nhận một cách trân trọng những
câu chuyện mà cho đến lúc đó vẫn chưa được kể. Thật hữu ích khi ta xem các phát
biểu không lời của thân chủ như là những thái độ ngập ngừng trước khi dấn thân
vào cuộc đối thoại, và cũng sẽ hữu ích khi sử dụng những phát biểu không lời
này, theo cách suy nghĩ của Tom Andersen (1995), như là điểm khởi đầu cho một
cuộc đối thoại đầy trân trọng với gia đình về những lý do chính đáng khiến họ
không nói ra những chuyện như thế. Việc này không chỉ giúp tạo nên không gian
cho những câu chuyện đến lúc đó vẫn chưa được kể, mà còn giúp nhà trị liệu thiết
lập nên một mối quan hệ hợp tác có tính trị liệu với gia đình mà mình đang làm
việc. Những ý tưởng này sẽ được minh họa qua một số trường hợp lâm sàng.
PHẦN DẪN NHẬP
Khi thân chủ tìm đến việc trị liệu,
họ có những câu chuyện muốn kể. Tuy nhiên, trong các cuộc đối thoại trị liệu,
cũng có những câu chuyện không được kể. Một số chuyện không được kể bởi vì thân
chủ thấy chúng không thích hợp với những mối bận tâm dẫn họ đến với việc trị liệu.
Một số chuyện khác có thể thích hợp nhưng họ lại thấy khó nói, chẳng hạn như
khi thân chủ nhận thấy bối cảnh đối thoại không an toàn để họ có thể kể câu
chuyện ấy, đặc biệt là những câu chuyện rất dễ gây tổn thương cho họ, những câu
chuyện gây ra sự ngờ vực, tội lỗi, xấu hổ và đau đớn. Rogers và cs. (1999) đã
nhận ra rằng có rất nhiều chuyện không được nói đến ở nhiều mức độ khác nhau:
“Từ chuyện chưa được kể (đơn giản là vì chưa nói đến hoặc đã bị quên đi), cho đến
chuyện không thể kể ra (những chuyện khó nói đến nhưng lại có thể biểu lộ một
cách có hàm ý qua các thái độ như phủ nhận, xét duyệt lại, lãng tránh hoặc giữ
im lặng), và thậm chí là những chuyện không thể nhắc đến (những chuyện có thể khơi
ra một sự nguy hiểm hoặc như một điều cấm kỵ)” (tr.91-92). Griffith và Griffith
(1994) cho rằng trong quá trình đối thoại, thân chủ thường quyết định chuyện gì
được kể và chuyện gì giữ lại trong im lặng: một sự bảo vệ thường xuyên của thân
chủ ngăn họ không bộc lộ những câu chuyện mà họ chỉ thấy an toàn khi chúng được
đặt trong những cuộc đối thoại bên trong có tính riêng tư” (Griffith và
Griffith, 1994: 40). Quá trình chọn lọc này biểu lộ ra bên ngoài khi thân chủ
trở nên ngập ngừng trước khi nói. Một thái độ ngập ngừng có thể được thể hiện
không chỉ bằng một sự im lặng kéo dài mà còn có thể bằng những dấu hiệu không lời
từ thân chủ: một cái liếc mắt, một tiếng thở dài, một khoảng nghỉ trong mạch
văn đang nói, một sự chuyển dịch tư thế trên ghế ngồi, vân vân... Thường thì
đây chỉ là những dấu hiệu không lời lướt thoáng qua khiến nhà trị liệu nếu
không chú tâm một cách đầy đủ thì cũng có thể bỏ qua. Tuy nhiên, những khoảnh
khắc ngập ngừng như thế là rất quan trọng, bởi vì đó là lúc thân chủ lượng giá
về bối cảnh đối thoại lúc đó có an toàn hay không đối vối tính mẫn cảm của câu
chuyện mà họ sắp kể ra.
Trong bài viết này, tôi sẽ nêu tầm
quan trọng của việc thân chủ ngập ngừng trước khi nói và nhà trị liệu có thể sử
dụng sự ngập ngừng đó như một công cụ quan trọng giúp mở ra khoảng không cho những
câu chuyện chưa được kể. Tôi sẽ đề xuất ba giả thuyết mà tôi thấy hữu ích cho
tôi khi làm việc với các gia đình.
- Thân chủ
thể hiện sự ngập ngừng khi nói ra những câu chuyện chủ yếu thông qua những
cách thức không lời.
- Thân chủ
thường có những lý do chính đáng để ngập ngừng. Sự ngập ngừng của họ thường
cho thấy họ có những câu chuyện quan trọng chưa được nói.
- Trong
các phiên trị liệu gia đình, trẻ em thường là những người thể hiện những sự
ngập ngừng này bởi vì các em là những người dễ mẫn cảm nhất đối với những
mối nguy có thể có bên trong gia đình.
Mục đích của bài viết này là nhằm
ghi nhận sự góp phần có tính xây dựng mà các giả thuyết này có thể mang đế cho
việc thực hành liệu pháp gia đình, đặc biệt trong việc tạo cơ hội giúp thiết lập
mối quan hệ hợp tác trị liệu với thân chủ và trong việc giúp mở ra khoảng không
gian cho những câu chuyện chưa được kể.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VÀ NHỮNG CUỘC
ĐỐI THOẠI
Anderson và Goolischian (1988)
cho rằng công việc của nhà trị liệu chính là lắng nghe những câu chuyện của
thân chủ và mở ra khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể. Tuy
nhiên, mối liên hệ giữa chuyện đã được kể và chuyện chưa được kể không phải là
điều đơn giản. Ngược lại, đó là một mối liên hệ động năng (dynamic) và phức tạp
khi mà điều được nói ra chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh của điều chưa được
nói (Rogers và cs., 1999), và khi điều được nói đồng thời vừa như được bộc lộ vừa
như bị che đậy (Lakoff và Johnson, 1980; Billig, 1997). Trong bài viết này, tôi
muốn tập trung vào khu vực giáp ranh giữa điều đã được nói và điều chưa được
nói. Thật vậy, mặc dù lời nói của thân chủ có những lúc diễn ra rất hối hả
trong khi đối thoại, nhưng cũng vẫn có những lúc thân chủ ngưng lại, chọn lựa nói
gì và không nói gì.
TRƯỜNG HỢP GIA ĐÌNH VANSTEEN
Tôi đã nói chuyện với một gia
đình, trong đó Kurt, người cha, đã trải qua một cơn đau tim nặng đe dọa tử vong
trước đó vài tháng. Kể từ lúc đó, Kurt trở nên trông rất già nua và rất sợ phải
sống tiếp. Người mẹ, Nancy, kể cho tôi nghe về những thay đổi mà đợt bệnh ấy đã
gây ra cho gia đình bà. Bà cũng nêu ra những ảnh hưởng mà việc ấy đã gây ra cho
Sid, đứa con trai duy nhất của họ.
Rồi bà nói: “Tuần sau sẽ có thêm
một cuộc kiểm tra sức khỏe cho Kurt”, vừa nói bà vừa liếc nhìn sang chồng, rồi
im lặng. Sự im lặng chỉ diễn ra trong khoảng một, hai giây, nhưng cũng đủ khiến
tôi nhận ra rằng Nancy ngập ngừng khi muốn nói tiếp câu chuyện của bà.
Điều đã diễn ra trên đây cho thấy
một việc khá thường gặp đó là thân chủ thường ngừng nói khi họ ngập ngừng trước
khi nói tiếp. Tom Andersen (1995) cho rằng khi thân chủ ngập ngừng, dường như họ
đang chuyển đổi qua lại giữa sự “đối thoại bên ngoài” (outer conversation) và sự
“đối thoại bên trong” (inner conversation). Sự im lặng khi đó là biểu hiện của
những phản ảnh hoặc suy ngẫm bên trong (inner reflection) qua đó thân chủ tìm
kiếm những cách thức tốt nhất để thể hiện bản thân ra bên ngoài (Andersen,
1995). Cùng lúc đó, việc ngưng nói này cũng tạo nên một khoảng không mà qua đó,
bằng cách thực hiện cuộc đối thoại bên trong (Rober, 1999), thân chủ sẽ quyết định
điều gì được nói và điều gì cần giữ im lặng (ít nhất là cho đến lúc đó)
(Griffith và Griffith, 1994). Thân chủ tự hỏi với bản thân: “Mình sẽ nói điều
này chứ, với nhà trị liệu này, ngay lúc này, trong phiên trị liệu này?”. Với ý
nghĩa đó, sự ngưng nói có thể được xem là thái độ ngập ngừng khi nói.
Như đã minh họa trong trường hợp
của Kurt, Nancy và Sid, một sự ngập ngừng thường được thể hiện bằng cách thức
không lời. Việc này có thể được hiểu nếu như sự ngập ngừng được quan niệm như
là một sự thương lượng giữa hai động thái: một là nói ra câu chuyện và hai là
giữ lại không nói. Sự thương lượng này sẽ được thể hiện thông qua cách thức
không lời. Các biểu hiện không lời đôi khi rất tinh tế và dễ bị bỏ qua nếu nhà
trị liệu không chú tâm một cách đầy đủ. Việc chú tâm đến những biểu hiện không
lời vốn đã là một việc hiển nhiên trong thực hành liệu pháp gia đình, nhưng kể
từ khi những ẩn dụ bằng lời (narrative metaphors), chẳng hạn như câu chuyện kể
và cuộc đối thoại, được dùng để làm nền tảng nhận thức luận (epistemological
foundation) cho việc thực hành lâm sàng, thì tầm quan trọng của giao tiếp không
lời có nguy cơ bị xem nhẹ trong liệu pháp gia đình. Thật vậy, việc sử dụng những
ẩn dụ bằng lời, như những “metaphor to live by” (Lakoff và Johnson, 1980), đã
có tác dụng mời gọi nhà trị liệu hướng sự chú tâm của mình vào những câu từ, giọng
nói và những câu chuyện. Hậu quả là họ chỉ giới hạn lĩnh vực nghiên cứu của họ
vào những chuyện được “nói ra”, còn những thông điệp không lời thì đã bị bỏ lại
trong khoảng mờ mịt không được hiểu.
NHỮNG THÔNG ĐIỆP KHÔNG LỜI BỊ CHE
KHUẤT
Điều này có lẽ cần một chút giải
thích thêm. Khái niệm “metaphor to live by” được mô tả lúc ban đầu bởi Lakoff
và Johnson (1980). Chủ yếu dựa trên những bằng chứng về ngôn ngữ học, Lakoff và
Johnson đã cho rằng ẩn dụ không đơn thuần chỉ là sự tô vẽ về mặt thơ văn hoặc
tu từ, mà còn như là một thành phần trong ngôn ngữ mà từ đó chúng ảnh hưởng lên
trên cách thức chúng ta nhận biết, suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, các tác giả
này còn nêu ra khái niệm về “sự hệ thống hóa có tính ẩn dụ” (metaphorical
systematicity). Với khái niệm này, họ có ý nói rằng một ẩn dụ luôn luôn nêu bật
lên một khía cạnh nào đó trong trải nghiệm của chúng ta, và để lại một khía cạnh
khác của trải nghiệm trong sự mơ hồ khó hiểu. Chẳng hạn như trong trong liệu
pháp gia đình, ẩn dụ “hệ thống” nêu bật lên mối tương tác giữa các thành viên
trong gia đình, nhưng nó lại làm lu mờ đi các khía cạnh như tính ngẫu nhiên của
các sự kiện xảy ra trong gia đình, hoặc mức độ chủ quan của người quan sát khi
phân tích hệ thống (Rosenblatt, 1994). Một ví dụ khác đó là “ẩn dụ điều khiển học”
(cybernetic metaphor), một mặt, có thể giúp chúng ta nhìn thấy sự tuần hoàn và
những vòng cung phản hồi (feedback loop) bên trong đời sống gia đình, nhưng mặt
khác, lại che khuất các khía cạnh như trách nhiệm cá nhân và sự mất quân bình về
quyền lực. Với cách thức này, mọi ẩn dụ đều làm “sáng lên” một phần trải nghiệm
của chúng ta và đồng thời để lại một phần khác của trải nghiệm ở trong bóng tối.
Nếu chúng ta chấp nhận những ý tưởng
của Lakoff và Johnson (1980), cũng sẽ hợp lý khi ta đặt ra câu hỏi: Các ẩn dụ bằng
lời (narrative metaphors) liệu có thể che khuất điều gì khi chúng ta sử dụng
chúng làm nền tảng nhận thức luận trong liệu pháp gia đình? Minuchin (1998) đã
cố gắng trả lời câu hỏi này trong một bài viết có nhan đề “Gia đình ở đâu trong
liệu pháp gia đình dựa trên chuyện kể?” (Where is family in narrative family therapy?),
và ông cho rằng việc sử dụng các ẩn dụ bằng lời trong liệu pháp gia đình sẽ làm
che khuất gia đình (Nguyên văn: “The use of narrative metaphors in family
therapy obscures the family”):
Liệu pháp dựa trên chuyện kể đã rời xa các nguyên tắc hệ thống nhằm nêu
bật lên bối cảnh sống và nền văn hóa, nhưng có điều gì đó nghịch lý trong động
thái này. Trong quá trình này, các lý thuyết gia đã đặt gia đình vào nhầm chỗ -
là chính ngay tại điểm tức thời và rõ rệt của bối cảnh và nền văn hóa mà người ta
đang sống trong đó. (Trang 403)
Xem qua tư liệu, dường như có một
khía cạnh trong thực hành liệu pháp gia đình đã bị làm lu mờ đi trong mô hình sử
dụng chuyện kể (narrative paradigm): đó chính là tầm quan trọng của giao tiếp
không lời.
(Lược bỏ một đoạn tác giả trích dẫn nhiều tài liệu chuyên môn về ngôn
ngữ không lời)
KHÔNG TỪ NGỮ KHÔNG HẲN LÀ KHÔNG
CÓ GIÁ TRỊ
Tuy nhiên, không phải tất cả những
nhà trị liệu dựa trên tương tác đối thoại đều xem “những điều thân chủ nói” như
là trọng tâm duy nhất của cuộc đối thoại trị liệu. Chẳng hạn như Tom Andersen
(1995) nhấn mạnh rằng nhà trị liệu không chỉ phải lắng nghe tất cả những gì được
nói mà còn phải nhìn thấy những điều ấy được phát biểu như thế nào: “Để nghe
cũng phải biết nhìn” (Andersen, 1995: 23). Ông đã cho ví dụ về một người cha thở
dài khi nói về nỗi buồn của đứa con trai. Điều này đã mời gọi Andersen khởi đầu
việc đối thoại về chuyện buồn ấy và ông đặt câu hỏi: “Khi con trai ông buồn, bên
trong nỗi buồn ấy chỉ toàn là buồn hay còn có thêm cảm giác nào khác?”. Người
cha nói “Nó còn có thêm cả sự giận dữ nữa”. Andersen tiếp tục hỏi “Nếu như con
trai ông có thể nói ra được nỗi buồn ấy, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?”
vân vân và vân vân. Với cách đặt những câu hỏi như thế, Andersen không có mục
đích tìm kiếm những ý nghĩa sâu xa đằng sau những gì được nói, như những nhà trị
liệu của trường phái cấu trúc (structurist) thường làm. Thay vào đó, ông muốn
hiểu những gì thực sự “bên trong” các diễn đạt bằng lời của thân chủ (Andersen,
1995). Ông chú tâm vào sự phong phú của các phát biểu không lời, và xem chúng
như những lời mời gọi để đặt thêm những câu hỏi vừa có tính hiếu kỳ vừa có tính
trân trọng thân chủ.
Trở lại trường hợp gia đình
Vansteen, chúng ta thấy rằng nhà trị liệu, được truyền cảm hứng bởi những kiểu
hỏi chuyện của Tom Andersen, đã sử dụng sự im lặng kéo dài của Nancy như một điểm
khởi đầu cho một cuộc đối thoại đầy trân trọng.
Tôi để sự im lặng trôi qua ít
phút, rồi hỏi Nancy:
“Nếu sự im lặng này của bà có thể
phát biểu ra được, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?”
“Tôi không biết... Tôi không muốn
làm ông ấy sợ [vừa nói vừa cuối đầu về
phía Kurt]. Ông ấy đã sợ như thế đấy, và nếu như tôi lại nói ra nỗi lo sợ của
mình...”
“Bà e rằng ông ấy sẽ càng sợ nhiều
hơn nếu bà nói ra nỗi sợ của mình?”
“Vâng”
Đôi khi sự ngập ngừng có thể được
diễn giải như là những phản ứng phòng vệ của thân chủ: nghĩa là thân chủ phản
kháng lại tiến trình trị liệu bằng cách không nói gì cả. Tuy nhiên, các tác giả
khác lại cho rằng “Sự im lặng thực sự mang nhiều dáng vẻ và âm điệu khác nhau”
(Serani, 2000: 505): Trong trị liệu, đối với những thân chủ khác nhau, sự im lặng
lại có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau. Học thuyết kiến tạo xã hội (social
constructionism) cho ta biết rằng ý nghĩa không thể được phát hiện bên trong ý
định của thân chủ, thay vào đó, ý nghĩa được tạo nên bởi cuộc “thương thảo”
(negotiation) khi nhà trị liệu đối thoại với thân chủ (Gergen, 1999). Trong trường
hợp gia đình Vansteen, ý nghĩa của sự im lặng ở bà Nancy được tạo nên một phần
bởi chính bản thân sự im lặng, một phần bởi đáp ứng của nhà trị liệu. Nhà trị
liệu không xem sự im lặng này như một sự vắng lặng, mà vẫn như một sự hiện diện
của lời nói: SỰ IM LẶNG CHỨA ĐẦY NHỮNG CÂU CHUYỆN CHƯA ĐƯỢC NÓI VÀ NHỮNG LÝ DO
KHIẾN CHÚNG KHÔNG ĐƯỢC NÓI. Nhà trị liệu xem sự im lặng của Nancy như là phản ảnh
sự ngập ngừng khi nói của bà: Có điều gì đó làm bà muốn nói và cũng có điều gì
đó khi bà không thể nói. Nhà trị liệu đặt câu hỏi về sự im lặng này: “Nếu sự im
lặng này có thể nói ra được, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?”. Câu trả lời của
Nancy cho thấy rằng bà đã chấp nhận đề nghị của nhà trị liệu ở điểm sự im lặng
của bà không phải là một sự trống không. Bà chấp nhận ý kiến của nhà trị liệu
khi ông đã làm cho sự ngập ngừng nói ra nỗi sợ của mình trở nên có ý nghĩa, và
bà làm rõ lý do chính đáng khiến bà ngập ngừng đó là vì bà không muốn làm chồng
mình sợ hãi thêm một cách không cần thiết.
Ví dụ đơn giản này đã soi sáng giả
thuyết thứ nhất trong bài viết này: Sự ngập ngừng của thân chủ khi đối thoại
thường được thể hiện bằng những cách thức không lời (chẳng hạn như giữ im lặng).
Nó cũng minh họa cho giả thuyết thứ hai: Thân chủ có những lý do chính đáng để
ngập ngừng. Đôi khi việc nói ra có thể gây nguy hiểm (Griffith và Griffith,
1994), thân chủ có thể làm tổn thương ai đó trong gia đình hoặc cũng có thể
chính mình bị tổn thương.
SỰ NGẬP NGỪNG TRONG NHỮNG PHIÊN
TRỊ LIỆU GIA ĐÌNH
John Byng-Hall đã mô tả cách thức
làm thế nào mà một đứa trẻ có thể trở thành một tác nhân điều hòa những khoảng
cách (distance regulator) bên trong gia đình của trẻ (Byng-Hall, 1980, 1995): Đứa
trẻ theo dõi mối quan hệ của cha mẹ mình, sẵn sàng kéo họ lại với nhau khi họ
cách nhau quá xa, hoặc có thể đến chen vào giữa họ khi họ ở quá gần nhau. Những
nhà trị liệu gia đình đã biết đến vô vàn những cách thức qua đó đứa trẻ đã được
thu hút vào những kiểu vận hành như thế (Byng-Hall, 1995: 185). Với cách thức
tương tự, trẻ em cũng thường trở thành những tác nhân điều hòa đối với những điều
được nói về trong phiên trị liệu gia đình bằng cách thể hiện sự ngập ngừng khi
đi vào cuộc đối thoại. Thật vậy, trong phiên trị liệu gia đình, sự ngập ngừng
không luôn luôn được thể hiện bởi những người đang nói. Đôi khi, trong lúc có một
thành viên trong gia đình kể một câu chuyện, thì một thành viên khác (thường là
một đứa trẻ) lại biểu hiện một dấu hiệu không lời mà dấu hiệu ấy có thể được hiểu
là sự ngập ngừng không muốn đi sâu vào phiên trị liệu. Đây là giả thuyết thứ ba
trong bài viết này. Giả thuyết này được gây cảm hứng từ công trình của Edith
Tilmans-Ostyn (1999a), người nói về những cái “phanh” (thắng) trong một gia
đình. Bà cho rằng trẻ em, thông qua những hành vi không lời của mình, thường
phát ra những tín hiệu cảnh báo về những nguy hiểm tạo nên từ cuộc đối thoại có
tính khám phá liên quan đến một số chủ đề nào đó trong phiên trị liệu. Khi đứa
trẻ bắt đầu gây ra một tiếng ồn, hoặc đòi đi vệ sinh, hoặc khi đứa trẻ làm xao
lãng bố mẹ, vân vân... đứa trẻ như thể đang tìm cách trì hoãn hoặc thậm chí làm
ngưng luôn cuộc đối thoại. Với ý nghĩa này, những phát biểu không lời của trẻ
có thể được hiểu như một chú giải không lời vào cuộc đối thoại rằng: “Có thể
nguy hiểm đấy”, “Chuyện này đi nhanh quá” hoặc “Không an toàn khi nói về chủ đề
đó đâu”...
NGHIÊN
CỨU CA CỦA TOM
Đó là lần đầu tiên cậu bé Tom, 8
tuổi, ngồi cùng bố mẹ chung một phòng sau 2 năm kể từ ngày bố mẹ cậu ly thân. Họ
lặng lẽ đi vào phòng. Cả ba có vẻ rất thận trọng. Người bố ngồi trên chiếc ghế
bên phải, mẹ ghế bên trái và Tom trên chiếc ghế ở giữa. Trong cuộc đối thoại
bên trong (inner conversation), tôi thắc mắc không biết cậu bé nghĩ gì khi ngồi
giữa bố và mẹ: Liệu cậu là chiếc cầu nối giữa họ hay là một hàng rào ngăn cách
giữa họ?
Tom được một bác sĩ gửi đến cho
tôi vì cậu bị những cơn đau dạ dày. Vị bác sĩ đã không tìm thấy chứng cứ thực
thể nào cho những cơn đau này, vì thế ông đã giới thiệu Tom cùng với bố mẹ đến
với tôi. Ban đầu chúng tôi ngồi im lặng, và rồi chúng tôi nói chuyện về mối bận
tâm của bố mẹ đối với những cơn đau khó hiểu của Tom. Tôi cảm thấy không thoải
mái khi nhận ra rằng cuộc nói chuyện này bằng cách nào đó đã trở thành một cuộc
đấu khẩu tinh tế giữa bố và mẹ. Họ nói chuyện nhẹ nhàng, nhưng luôn luôn chỉ
trích lẫn nhau. Tôi lấy làm lạ bởi vì họ hề không nhìn nhau như thể người này
không để ý là có người kia cũng đang hiện diện. Từ từ tôi nhận thấy áp lực ngày
một gia tăng giữa họ. Rồi một cuộc xung đột thực sự đã nổ ra giữa họ khi thời
gian nói chuyện diễn ra được khoảng một giờ. Có vẻ như sự bùng nổ ấy là không
thể tránh khỏi. Tôi tự khỏi không biết Tom cảm thấy như thế nào? Và cùng lúc ấy,
tôi thấy Tom dùng hai tay ôm lấy bụng. Tôi tự hỏi: “Cậu bé đang đau à?”. Tôi
nhìn sang cha mẹ cậu xem họ có nhận thấy giống tôi hay không thì họ đã không nhận
biết gì cả.
Người bố nói với tôi: “Dĩ nhiên
phải tùy ông xem coi có chuyện gì đã xảy ra cho Tom như vậy”.
Tôi tự hỏi mình sẽ có thể nói gì
nếu như không thử đứng vào góc độ xem xét của từng người trong số họ? (Nguyên
văn: “without taking sides”). Tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt giữa người bố và người
mẹ, và tôi cũng chợt nhận ra rằng Tom hẳn cũng đã cảm thấy theo cách giống như
vậy. Tôi lại nhìn Tom. Gương mặt cậu bé cho tôi biết rằng cậu đang đau vì thế
tôi hỏi: “Cháu đang đau à?”.
Cậu chẳng nói gì mà chỉ gật đầu.
Tôi mời cậu bé đến ngồi bên cạnh tôi và kể cho tôi nghe về cơn đau của cậu. Tom
đứng lên và đến ngồi cạnh tôi.
“Cháu có thể nói cho chú nghe
cháu đau như thế nào không?” Tôi hỏi.
“Giờ cháu thấy đỡ hơn rồi”, Tom
đáp.
“Thế thì tốt”, tôi nói và tôi
cũng thấy rằng Tom đã đỡ đau hơn.
Tôi đặt giả thuyết rằng cơn đau bụng
của Tom có thể là cách thể hiện những áp lực mà Tom cảm thấy khi cậu ngồi giữa
bố và mẹ. Và tôi quyết định hỏi cậu về điều đó.
“Cháu có thể nói thử xem cơn đau ấy
đang cố gắng nói với chúng ta điều gì vậy?”. Tôi hỏi nhưng cũng cảm thấy rằng
Tom sẽ không thể nói được gì vào lúc đó. Và thật vậy, cậu đã không thể trả lời.
Vì thế tôi trở lại nhìn sang phía bố mẹ cậu và chúng tôi nói về những khó khăn
nào họ đã gặp phải trong việc làm bố mẹ của Tom sau khi họ đã chia tay. Tôi
cũng chú ý thấy, ít nhất là vào lúc ấy, những áp lực giữa bố và mẹ cũng đã mất
đi. Cả hai cho đến lúc ấy đều đang lắng nghe một cách chăm chú những gì Tom và
tôi nói với nhau. Tôi lưu nhớ trong trí mình về điều cơn đau của Tom đã gây cho
bố mẹ cậu sự chú ý đối với cậu, và bằng cách đó cơn đau đã tạo cơ hội cho việc
giảm bớt căng thẳng giữa bố mẹ và tránh xảy ra sự bùng nổ bạo lực giữa họ với
nhau.
Như được minh họa trong câu chuyện
của Tom, trong một số trường hợp, triệu chứng của đứa trẻ tự nó đã biểu hiện
như một hành vi không lời trong phiên trị liệu, mà điều đó có thể được hiểu như
là một thái độ lưỡng lự không dám đối thoại. Như thể Tom đang muốn cho nhà trị
liệu biết rằng sẽ rất nguy hiểm khi tiếp tục phiên trị liệu bởi vì có khả năng
sẽ bùng nổ một cuộc xung đột giữa bố mẹ của của cậu. Nhà trị liệu sử dụng hành
vi không lời của Tom như một điểm khởi đầu cho cuộc đối thoại. Việc làm này thường
có lợi vì nó tạo ra khoảng không gian cho việc kể ra những chuyện chưa được kể.
Tuy nhiên, điều quan trọng là nhà trị liệu cần phải tôn trọng nhịp độ và tính mẫn
cảm (tempo and vulnerability) của các thành viên trong gia đình (Rober, 1998).
Thật vậy, đôi khi những thành viên trong gia đình có thể biểu lộ ra các sự việc
theo cách không lời, trước họ hoặc các thành viên khác trở nên sẵn sàng hơn để
có thể nói chuyện. Điều này dường như đúng trong trường hợp cơn đau bụng của
Tom. Nhà trị liệu trước tiên đã nghĩ rằng, bằng cách đề cập đến chủ đề đau bụng
của Tom, sẽ có thể mở ra khoảng không gian để nói đến những áp lực chưa được
nói đến mà Tom đã cảm thấy từ cuộc đối thoại giữa bố mẹ của cậu. Tuy nhiên, sau
đó, nhà trị liệu không muốn ép buộc cậu nói bởi nhà trị liệu suy nghiệm rằng nếu
dạ dày của Tom đã lên tiếng thay cho miệng cậu có thể nói, tất hẳn phải có lý
do chính đáng để cơn đau xảy ra. Có lẽ đã rất khó khăn hoặc quá nguy hiểm, ít
nhất cho đến lúc đó, khi dùng lời lẽ để nói ra câu chuyện (Griffith và
Griffith, 1994). Trong những trường hợp như thế này, tốt nhất nhà trị liệu có lẽ
nên giả lờ các phát biểu không lời ấy hoặc chỉ nên thận trọng cho một lời bình với
“một thái độ thận trọng không chắc chắn để giúp cho gia đình trở nên nhạy cảm
hơn đối với những điều mà trước đó họ đã bỏ qua không chú ý” (Andersen, 1987:
420).
NHỮNG LÝ DO CHÍNH ĐÁNG ĐỂ KHÔNG
NÓI RA
Thay vì tập trung vào nội dung của
những chuyện chưa được nói, tôi đề nghị các nhà trị liệu nên mời gọi các thành
viên gia đình nói ra những lý do chính đáng khiến họ không kể ra những câu chuyện
này (Tilmans-Ostyn, 1999a). Nhà trị liệu nên nói rằng: “Tôi hiểu bạn không muốn
nói ra điều đó vào lúc này. Như vậy cũng tốt. Nhưng có thể giúp tôi hiểu điều
gì đã khiến bạn khó khăn đến nỗi không thể nói được lúc này?” hoặc “Bạn sợ điều
gì sẽ xảy ra?”. Những loại câu hỏi thế này phản ảnh sự tôn trọng chân thành của
nhà trị liệu trong việc công khai dành cho thân chủ quyền được quyết định có
nói ra điều mà họ muốn nói hay không. Ngoài ra, nhà trị liệu cũng thừa nhận việc
than chủ có những lý do chính đáng để quyết định không kể những câu chuyện ấy,
còn về phần mình, nhà trị liệu mong muốn cố gắng để hiểu tầm quan trọng của những
lý do chính đáng này. Cách tiếp cận theo kiểu trân trọng và dè dặt như thế thường
sẽ mở ra những khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể từ đó giúp
làm sáng tỏ việc thân chủ có nhu cầu tự bảo vệ họ bằng cách giữ kín một số chuyện.
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỦA ELLY VÀ
CÂU CHUYỆN MŨI KIM TIÊM DƯỚI DA
Một phụ nữ đã ly hôn cùng với hai
con (con gái Elly, 8 tuổi, và con trai Art, 2 tuổi) đến với phiên trị liệu gia
đình vì những bận tâm của bà đối với hành vi có vấn đề của đứa con gái. Người mẹ
cũng cho biết chính bà cũng đã nhập viện điều trị chứng trầm cảm trước đó vài
tháng, và bà cũng biểu lộ ý muốn có được những phiên trị liệu cá nhân cho riêng
bà để có thể nói ra những trải nghiệm đau thương của chính mình thời thơ ấu. Mẹ
của bà đã qua đời lúc bà chỉ mới 8 tuổi và tuổi thơ của bà trôi qua với sự cô độc.
Vào cuối phiên trị liệu thứ hai,
người mẹ đề nghị rằng sẽ có lợi cho Elly nếu có thể để em nói chuyện riêng với
nhà trị liệu về người bố của mình và em đã nhớ bố như thế nào sau khi bố mẹ
chia tay. Tôi quay sang hỏi Elly rằng em nghĩ sao về đề nghị của mẹ. Elly lắc đầu.
Tôi hỏi em cử chỉ này nghĩa là như thế nào. Elly miễn cưỡng nói rằng em không
muốn nói về bố bởi vì nói thế sẽ làm cho em rất buồn. Tôi nói nếu em không muốn
nói về bố thì tôi sẽ tôn trọng quyết định của em, nhưng tôi cũng thêm rằng nếu
khi nào em đổi ý và quyết định nói chuyện về bố thì em vẫn có thể nói. Elly gật
đầu. Rồi tôi hỏi bà mẹ rằng bà có muốn nói chuyện riêng về tuổi thơ đau thương
của mình mà không có mặt những đứa con không, như bà đã đề nghị vào phiên trị
liệu thứ nhất? Bà nói rằng bà thực sự muốn nói về tuổi thơ của bà. Ngay chính
lúc đó, Elly đứng dậy và cầm một chiếc ống tiêm đồ chơi làm động tác giả vờ như
đang tiêm cho mẹ một liều thuốc. Người mẹ ngưng nói và nói đùa với con “A! Con
đang làm mẹ đau”. Cả hai chúng tôi cùng nhìn Elly.
Khi Elly làm động tác cho mẹ một
mũi tiêm, ý nghĩ đầu tiên đến trong đầu tôi là “việc này quan trọng đây”. Trong
cuộc đối thoại bên trong (inner conversation) của tôi, tôi tự hỏi liệu có phải
Elly đang cố lội kéo sự chú ý của chúng tôi ra khỏi chủ đề đau buồn mà người mẹ
đang nói đến để hướng sang chuyện đang xảy ra tại-đây-lúc-này ít đau buồn hơn
chăng? Một giả thuyết khác cũng thình lình vụt lên trong trí tôi đó là việc làm
của Elly là cách thức có tính biểu tượng của em nhằm giúp đỡ mẹ mình cảm thấy bớt
đau buồn hơn về tuổi thơ bất hạnh của bà – Mũi tiêm như thể một “liều thuốc giảm
đau” (Nguyên văn: “pain-killer). Thật vậy, chính Elly cũng mới vừa nói là em
không muốn nói chuyện riêng về những chuyện quan trọng đối với em vì nói ra sẽ
khiến em quá đau buồn. Có lẽ em cũng nghĩ rằng mẹ em cũng sẽ rất đau buồn khi kể
về tuổi thơ của bà.
Tôi hỏi Elly theo kiểu vui đùa
“Cháu muốn làm mẹ cảm thấy bớt đau phải không?” Elly chỉ cười mà không nói gì.
Rồi tôi nói với cô bé về những suy nghiệm của tôi. Tôi nói rằng tôi đã rất ấn
tượng về em như một người rất ân cần và có lẽ em cũng sợ mẹ đau buồn nếu như bà
một mình nói về tuổi thơ của bà, vì thế em muốn cho bà một mũi tiêm giảm đau.
Elly đáp rằng em không muốn để mẹ
một mình nói với tôi về tuổi thơ đau buồn của bà. Tôi nhờ em giúp tôi hiểu điều
đó nghĩa là gì. Cô bé vẫn im lặng. Tôi hỏi: “Cháu có nghĩ rằng mẹ sẽ rất buồn
khi mẹ nói về tuổi thơ của mẹ không?”. Em đã gật đầu đồng ý.
Người mẹ nói với Elly: “Nhưng nếu
mẹ nói ra được chuyện đó, nỗi đau cuối cùng rồi cũng sẽ qua đi”. Elly lắc đầu
và nói: “Nếu mẹ nói về những chuyện buồn đó thì con sẽ phải ngồi ở đâu đây?”.
Trước tiên, tôi hơi bối rối vì
câu nói của Elly. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng có thể Elly đang có ngụ ý nói đến
khoảng thời gian ba tháng khi mẹ em phải nhập viện vì chứng trầm cảm. Elly đã
phải ở nhà trong suốt thời gian đó. Tôi hỏi cô bé có lo sợ rằng mẹ phải nhập viện
một lần nữa nếu bà kể về tuổi thơ đau buồn của bà? Em gật đầu đồng ý.
Sự trả lời khẳng định của Elly đã
công nhận ý kiến của nhà trị liệu rằng có thể hiểu hành động của cô bé giả vờ
tiêm thuốc cho mẹ như thể là cách cô bé thể hiện sự ngập ngừng không muốn tiến
sâu hơn vào cuộc đối thoại. Elly dường như rất nhạy cảm với sự nguy hiểm của việc
mẹ em nói chuyện riêng với nhà trị liệu bởi vì em lo sợ mẹ sẽ bị trầm cảm trở lại.
Do vậy, Elly có những lý do chính đáng để ngập ngừng.
SỰ NGẬP NGỪNG VÀO LÚC KHỞI ĐẦU TRỊ
LIỆU
Sự ngập ngừng thường được quan
sát thấy, không chỉ trong quá trình đối thoại, mà còn ngay lúc mới bắt đầu cuộc
gặp gỡ trị liệu, tức là khi thân chủ và nhà trị liệu gặp gỡ nhau lần đầu tiên:
chẳng hạn như khi thân chủ đang ngồi đợi ở phòng chờ, hoặc khi thân chủ bắt đầu
ngồi đối diện với nhà trị liệu với sự chăm chú của nhà trị liệu đợi nghe câu
chuyện của thân chủ. Khi ấy, thân chủ cảm nhận ra tính nhạy cảm của câu chuyện
mà mình sắp nói ra và e ngại liệu bối cảnh đối thoại này có đủ an toàn hay
không: Nhà trị liệu liệu sẽ hiểu được mình? Có cười mình không? Nhà trị liệu sẽ
xem mình là điên rồ chăng? Hoặc liệu mình sẽ không thể kiểm soát được cảm xúc?
Vân vân... Thân chủ hiếm khi nói thành lời những ý nghĩ này, nhưng họ vẫn ngập
ngừng, và sự ngập ngừng của thân chủ thường biểu hiện bằng những cách thức tế
vi, không lời, khó thể nhận biết. Điều này được minh họa trong trường hợp Liza,
cô gái 25 tuổi, đến trị liệu vì cô bị xâm hại khi còn nhỏ bởi chính người cha của
mình.
NGHIÊN CỨU CA CỦA LIZA
Khi Liza bước vào phòng trị liệu
vào đầu phiên trị liệu đầu tiên, tôi cảm nhận được một sự băn khoăn mơ hồ. Sự
băn khoăn ấy vẫn không hết sau đó. Trước tiên, tôi không thể chỉ ra được đó là
điều gì (Nguyên văn: “I could not put my finger on it”). Tôi cũng tự hỏi liệu
có điều gì không hay đang xảy ra? Tôi tự bảo mình hãy đặt tâm thế ra xa một
chút và chú tâm vào cuộc đối thoại bên trong của mình. Cái làm cho tôi cảm thấy
băn khoăn không phải là nội dung những điều Liza nói mà là cách thức cô ấy nói.
Những câu trả lời của cô khá là ngắn gọn. Cô có vẻ rất căng thẳng. Tôi cũng nhận
thấy cô hay nhìn đi chỗ khác và tránh nhìn mắt tôi. Tôi thấy cô có vẻ khá bực bội
và điều đó khiến tôi cảm thấy cô ấy không tin tưởng tôi. Tôi cũng tự phản ảnh rằng,
mặc dù chúng tôi mới gặp nhau lần đầu, cô ấy có vẻ đang tức giận đối với tôi.
Có lẽ tôi đã nói điều gì đó khiến cô bị tổn thương hoặc cũng có thể vì một lý
do gì khác? Hoặc cũng có thể cô ấy chỉ căng thẳng như nhiều thân chủ khác khi mới
bắt đầu bước vào trị liệu.
Tôi hỏi Liza rằng cô có cảm thấy
căng thẳng hay không?
Trước tiên, cô im lặng, nhưng sau
đó cô nói rằng cô cảm thấy không dễ dàng gì khi đến trị liệu.
“Cô có thể giúp tôi hiểu được ý
nói này của cô không?”, tôi hỏi.
Liza đáp là cô đã suy nghĩ đến việc
trị liệu từ rất lâu rồi, nhưng cô luôn luôn từ bỏ ý định đó: “Ngay cả mới đây
thôi, khi tôi ngồi ở phòng chờ”, cô nói thêm.
Tôi lại yêu cầu cô nói thêm để có
thể giúp tôi hiểu rõ cô. Và cô đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“Bố tôi đã xâm hại tôi khi tôi chỉ
mới lên 4 hoặc 5 tuổi. Ông ta vào phòng tôi ban đêm lúc mọi người đã ngủ cả, và
ông ấy đã cưỡng hiếp tôi. Sau đó, ông bảo tôi không nên kể việc này cho ai cả
vì đó là bí mật riêng của chúng tôi, và nếu tôi kể ra thì ông sẽ phải vào tù.
Vì thế tôi đã không kể điều này cho ai biết cả, nhưng những đêm sau đó, ông ấy
lại vào phòng và cưỡng hiếp tôi. Một đêm nọ, tôi bị tiểu dầm. Khi bố tôi đến và
nhận thấy giường tôi ướt sũng, và ông gọi tôi là đứa con gái hư, dơ dáy, bẩn thỉu,
nhưng ông không gần gũi tôi nữa. Và tôi đã tìm được cách để tự bảo vệ mình trước
ông ấy. Từ đó trở đi, mỗi đi tôi đều tiểu ướt cả giường của mình.
“Chẳng bao lâu sau, mẹ tôi phát
hiện tôi bị tiểu dầm. Bà gọi và hỏi chuyện với một bác sĩ, và ông ấy gửi chuyển
tôi đến một nhà trị liệu. Khi mẹ tôi nói chúng tôi sẽ đến gặp một nhà trị liệu,
tôi đã khấp khởi hy vọng. Có thể lúc đó tôi sẽ thoát khỏi nỗi đau đớn, sợ hãi
và tủi nhục. Tuy nhiên, trong phiên trị liệu đầu tiên, tôi nhận thấy rằng nhà
trị liệu chỉ lo tìm kiếm cách giải quyết cho chuyện tiểu dầm của tôi thôi. Ông ấy
dường như chẳng đoái hoài gì đến những mối quan hệ trong gia đình tôi, cũng
không quan tâm đến việc tôi tiểu dầm như thế nào và tại sao tôi lại như thế.
Tôi phải thừa nhận rằng cách làm đó cũng đã giúp tôi giảm nhẹ phần nào vì tôi rất
sợ phải đối diện với bố tôi. Cùng lúc đó, tôi lại cảm thấy tức giận đối với nhà
trị liệu, không chỉ bởi vì ông chẳng chú tâm đến chuyện gì khác ngoài chứng tiểu
dầm của tôi, mà còn bởi vì ông ta chỉ lo tìm kiếm cách khắc phục chứng tiểu dầm
mà không nhận ra đây chính là cách duy nhất giúp tôi có thể đối phó với bố tôi.
“Vì vậy, tôi đã âm thầm phá hỏng
những giải pháp mà ông đã đề nghị. Và tôi cũng đã thề rằng mình sẽ chẳng bao giờ
tin vào những nhà trị liệu một lần nào nữa.”
Câu chuyện kể của Liza về những
trải nghiệm thời thơ ấu của cô có thể cho chúng ta những bài học về tầm quan trọng
của sự giao tiếp không lời (trong trường hợp này đó là triệu chứng của Liza: chứng
tiểu dầm) trong thực hành liệu pháp gia đình. Nó cho thấy rằng những hành vi
không lời của trẻ em thường “chạm đến” những câu chuyện không được nói đến
trong gia đình. Hành vi không lời dường như là phương thức tốt nhất để “nói ra”
những điều không thể nói thành lời, vì nói ra là điều bị cấm đoán và không an
toàn (Griffith và Griffith, 1994). Sự thật là những dấu hiệu không lời của cô
bé Liza đã không được nhà trị liệu xem xét một cách nghiêm túc và ông ta cũng
không hiểu những biểu hiện như thế, và đó cũng là điều gây thất vọng lớn lao
cho cô bé. Ngoài ra, sự ngập ngừng của cô (lo sợ đối diện với cha), được thể hiện
thông qua việc cô âm thầm phá hỏng kế hoạch chữa trị, cũng là một việc không được
nói ra. Cũng có thể khí đó, nhà trị liệu đã cảm thấy rằng cô bé là một đứa trẻ
khó khăn, hay phản kháng.
Phiên trị liệu đầu tiên của nhà
trị liệu với Liza (khi đã lớn) đã nêu lên tầm quan trọng của việc phải xem xét
một cách nghiêm túc những biểu hiện không lời của sự ngập ngừng mà thân chủ thể
hiện vào lúc khởi sự trị liệu, bởi vì những biểu hiện ngập ngừng ấy thường có
ngụ ý rằng đã có những câu chuyện riêng tư quan trọng mà trước đó chúng đã chưa
được kể. Như trong trường hợp của Liza, sự ngập ngừng vào lúc khởi sự trị liệu
thường có thể ngụ ý rằng có một trải nghiệm không thoải mái, thậm chí là gây
sang chấn, mà thân chủ có trước đó đối với việc trị liệu (Tilmans-Ostyn,
1999a). Những trải nghiệm tiêu cực đối với việc trị liệu có thể khiến cho thân
chủ có thể cảm thấy mình trở nên quá nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Việc mở ra
không gian cho việc kể ra những câu chuyện như thế sẽ làm gia tăng thêm những
cơ hội để những cuộc gặp gỡ trị liệu sau đó trở nên có tính hợp tác hơn và hữu
ích hơn, không chỉ vì nó tạo ra cơ hội cho nhà trị liệu thực hiện việc chăm sóc
những khía cạnh nhạy cảm của thân chủ, mà còn vì nhà trị liệu có thể mở ra
không gian cho những điều mới mẻ hơn bằng cách bảo đảm rằng những trải nghiệm
tiêu cực kia sẽ không tái diễn trong quá trình trị liệu mới mẻ này
(Tilmans-Ostyn, 1999a). Việc kể ra được câu chuyện về những trải nghiệm tiêu cực
như thế đôi khi cũng đủ khiến cho thân chủ đoan chắc rằng những trải nghiệm
tương tự như thế sẽ không tái diễn trở lại. Bằng cách kể ra câu chuyện ấy, tiến
trình trị liệu mới lần này trở nên khác biệt hơn so với lần trị liệu cũ trước
đó, và những khoảng không gian sẽ được mở ra cho những trải nghiệm mới.
Tuy nhiên, cũng có lúc, việc nói
ra câu chuyện cũng chưa đủ để giúp thân chủ thoát khỏi những mối bận tâm với những
trải nghiệm trong quá khứ. Trong những trường hợp như thế, nhà trị liệu có thể
bàn bạc với những thành viên khác trong gia đình xem điều gì có thể bảo đảm cho
họ sẽ không tái diễn những điều tồi tệ tương tự khi họ chấp nhận những nguy cơ
khi dấn thân vào tiến trình trị liệu mới mẻ lần này. Như được minh họa trong ca
lâm sàng tiếp theo sau đây, cuộc đối thoại để trả lời cho câu hỏi nàycó thể cho
chúng ta những manh mối để tìm ra những thứ cần thiết để giúp cho thân chủ cảm
thấy an toàn khi diễn ra cuộc đối thoại trị liệu.
CA LÂM SÀNG CỦA SAM VÀ VIỆC TUYÊN
BỐ “LUẬT THỜI CHIẾN”
Một gia đình đã đến trị liệu vì đứa
con trai 12 tuổi tên Sam đã bỏ nhà ra đi. Khi cảnh sát tìm thấy cậu thì cậu đã
quả quyết rằng mình đã bị bắt cóc. Cảnh sát không tin câu chuyện của cậu và gửi
trả cậu trở về với bố mẹ. Họ cũng đã liên lạc với nhà tâm lý học đường và người
này đã nói chuyện với Sam. Do bởi Sam nêu ra một số vấn đề trong gia đình nên
nhà tâm lý học đường đã chuyển gửi Sam và gia đình cậu đến với tôi.
Trong phiên trị liệu đầu tiên,
Sam đã giữ im lặng. Cậu không muốn nói gì. Tôi hỏi xem cậu có cách nào để giúp
tôi có thể hiểu được sự im lặng của cậu. Sam nhìn bố rồi tiếp tục im lặng. Tôi
nói: “Sam, chú không chắc lắm, nhưng chú có ấn tượng rằng cháu không muốn nói
chuyện. Thế cũng được. Cháu không cần phải nói gì.”
Tôi ngừng một chút rồi nói tiếp:
“Chú sẽ kể cho cháu nghe một câu chuyện ngắn. Đây, hãy nhìn con rùa này. [Tôi
cho cậu thấy một con rùa đồ chơi] Bất cứ khi nào rùa cảm thấy không an toàn,
rùa sẽ thu rút đầu và chân mình vào trong chiếc mai. [Tôi cũng cho cậu xem cách
thức rùa thu rút đầu và chân] Bằng cách đó, con rùa không thể bị tổn thương. Đó
cũng là cách một con rùa tự bảo vệ mình tránh bị tổn thương. Trẻ con thì không
có chiếc mai như rùa. Cháu có biết trẻ con sẽ tự bảo vệ mình như thế nào khi cảm
thấy không an toàn không? Trẻ con sẽ im lặng và chờ đợi cho đến khi mọi chuyện
trôi qua. Chúng sẽ không nói gì cả. Vì vậy, khi cháu cứ giữ im lặng như thế,
chú đang tự hỏi liệu rằng cháu có đang cảm thấy không an toàn? Chú cũng đang thắc
mắc liệu rằng trước đây, cháu đã từng có một trải nghiệm không tốt khi nói ra một
điều gì đó?”
Sam lại nhìn bố và nhìn sang cả mẹ.
Tôi có ấn tượng rằng Sam đang chú tâm đến loại câu hỏi này. Rồi Sam đang làm động
tác lấy hơi như thể cậu chuẩn bị nói ra điều gì đó, nhưng tôi ngăn lại: “Không,
đợi đã. Cháu đừng trả lời chú. Cháu chỉ nên trả lời khi cảm thấy đủ an toàn
thôi.”
Sam gật đầu. Rồi cậu cho biết cậu
đã cảm thấy an toàn khi nói chuyện với nhà tâm lý học đường, nhưng lúc này, với
sự hiện diện của bố mẹ, cậu thấy không muốn nói. Chúng tôi nói về sự khác biệt
giữa việc nói chuyện khi gặp riêng với nhà trị liệu và nói chuyện khi có mặt bố
mẹ trong phiên trị liệu gia đình. Rồi câu chuyện nhanh chóng làm rõ ra một điều
rằng Sam lo ngại rằng nếu bố mẹ nói chuyện thì bố cậu có thể trở nên trầm cảm
trở lại. Bố mẹ cậu cho hay bố đã từng phải nhập viện vài lần để điều trị chứng
trầm cảm nghiêm trọng. Người bố nói rằng ông cảm thấy căng thẳng khi đến gặp
nhà trị liệu vì ông e ngại việc nói chuyện có thể kích hoạt chứng trầm cảm trở
lại. Ông giải thích: “Tôi đã đi trị liệu, nhưng tôi càng nói thì tôi lại cảm thấy
mình trầm cảm nhiều hơn, vì thế tôi đã không trở lại trị liệu nữa”.
Tôi hỏi họ liệu có điều gì bảo đảm
rằng một chuyện tương tự sẽ không xảy ra tại đây, trong cuộc đối gia đình như
thế này?
Sam nói: “Miễn tất cả chúng ta thận
trọng để có thể phát hiện thấy những dấu hiệu đầu tiên của trầm cảm”
“Theo dõi những dấu hiệu cảnh báo
à?”, tôi hỏi.
Sam gật đầu.
Rồi tôi nói: “Dấu hiệu báo động
chứng trầm cảm xuất hiện trở lại nơi bố cháu là dấu hiệu gì?”
Sam và bố mẹ cậu cho biết đó là
“không muốn thức dậy vào buổi sáng”, “luôn cảm thấy mệt mỏi”, “ít nói chuyện với
hai mẹ con”, “ít nói về bản thân một cách tích cực”, “không còn thích đọc báo”,
“không thích cùng bạn bè đi câu cá nữa”, “hay thở dài”, “uống rượu nhiều”...
Tôi ghi chú những dấu hiệu này.
Tôi đề nghị có một thang điểm để đánh giá các dấu hiệu cảnh báo này. Vào đầu mỗi
phiên trị liệu, từng thành viên gia đình sẽ cho điểm vào mỗi tiết mục trên đây
theo các mức độ từ 1 (không có báo động gì cả) cho đến 10 (mức báo động đỏ). Rồi
tôi bàn với họ về mức độ nào mà từ đó có thể bắt đầu cảnh báo (từ mức 6 trở
lên), chúng tôi nên phản ứng như thế nào và chúng tôi nên làm gì khi đó...
Sam nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ tuyên
bố luật thời chiến”
Mọi người cười ồ lên.
Chúng tôi chuyển sang nói về “luật
thời chiến” có nghĩa là gì trong gia đình này và rồi họ quyết định rằng với “luật
thời chiến” thì tất cả các phiên trị liệu phải đừng quá cảm xúc và đừng quá “đi
sâu”, người bố phải liên hệ với bác sĩ tâm thần để xem xét có dùng thuốc hay
không, người bố cũng phải nói với mẹ về điều gì đã làm ông phiền muộn, rồi ông
cũng sẽ phải suy nghĩ về những khía cạnh tích cực của bản thân cũng như hoàn cảnh
xung quanh ông và bàn bạc những điều ấy với gia đình mình.
Sau phiên trị liệu ấy, tôi đã thực
hiện một bản hợp đồng quy định rõ những thỏa thuận mà chúng tôi đã đạt được. Được
sự đồng ý của người bố, tôi cũng tiếp xúc với vị bác sĩ tâm thần của ông để giải
thích chúng tôi sẽ làm gì trong các phiên trị liệu gia đình. Vào phiên trị liệu
kế tiếp, mỗi người được phát cho một bản sao của hợp đồng này và một bản sao của
thang đánh giá để ghi điểm. Thủ tục này tạo điều kiện cho việc nói chuyện trở
nên an toàn hơn đối với gia đình này. Nó cũng giúp cho nhà trị liệu thiết lập
được một mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác với gia đình ấy. Trong suốt quá
trình trị liệu, thang đo đánh giá đã được ghi điểm và ngưỡng báo động chưa bao
giờ được đạt đến.
KẾT LUẬN
Trong bài viết này, tôi chủ
trương rằng đôi khi sẽ rất hữu ích nếu ta xem những phát biểu không lời của
thân chủ như là biểu hiện của sự ngập ngừng không dám nói chuyện và có thể sử dụng
những phát biểu không lời này, theo cách nghĩ của Tom Andersen (1995), như là
điểm khởi đầu cho một cuộc đối thoại đầy tính trân trọng đối với gia đình thân
chủ. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là tôi không đề nghị nhà trị
liệu nói ra những linh cảm hoặc suy đoán của mình về những câu chuyện chưa được
kể của thân chủ. Trái lại, tôi đề nghị rằng nhà trị liệu nên có thái độ rất
trân trọng đối với câu chuyện chưa được kể ấy và cuộc đối thoại nên chú trọng đến
sự ngập ngừng và các lý do chính đáng khiến thân chủ không thể nói ra. Cách tiếp
cận trị liệu có tính dè dặt và chân thành tôn trọng như thế thường sẽ giúp tạo
nên một bối cảnh an toàn để thân chủ có thể nói ra những câu chuyện mà họ xem
là nhạy cảm. Ngoài ra, cách đó cũng giúp nhà trị liệu thiết lập được một mối
quan hệ trị liệu có tính hợp tác với gia đình.
Để kết luận, điều quan trọng cần
thừa nhận ở đây là, mặc dù tôi đã giả thuyết rằng thân chủ thường thể hiện sự
ngập ngừng thông qua các cách thức không lời, nhưng không phải tất cả các biểu
hiện ngập ngừng đều ở dạng không lời. Đôi khi, thân chủ chỉ nói rằng “Tôi không
chắc mình muốn nói về chuyện này bởi vì...”. Tuy thế, những thể hiện ngập ngừng
bằng lời như thế cũng thường được báo trước bởi những dấu hiệu không lời. Trẻ
em thường là những người sử dụng cách thức không lời để thể hiện sự ngập ngừng
này bởi vì trẻ em thường “tắm mình trong bầu khí cảm xúc của gia đình mình”
(Tilmans-Ostyn, 1999b: 90) và việc này tạo cơ hội cho nhà trị liệu có thể mời gọi
trẻ em làm “cố vấn” cho mình trong khi thực hiện cuộc đối thoại trị liệu
(Andolfi, 1995). Đứa trẻ ngập ngừng và phát các tín hiệu không lời báo động các
mối nguy hiểm có thể có và nhà trị liệu có thể sử dụng các dấu hiệu không lời của
đứa trẻ như điểm khởi đầu để đối thoại đi xa hơn, không phải về chủ đề mối nguy
hiểm, mà là về sự ngập ngừng và các lý do chính đáng khiến các thành viên gia
đình không nói ra câu chuyện.
Chính thân chủ mới là “chuyên
gia” chứ không phải nhà trị liệu và câu chuyện của thân chủ nên được xem là có
tầm quan trọng trung tâm. Tuy nhiên, một phần câu chuyện của thân chủ được kể bằng
cách thức không lời nên nếu không chú ý đầy đủ các biểu hiện không lời của các
thành viên gia đình thì nhà trị liệu có thể bỏ qua những câu chuyện quan trọng
không được kể. Việc lắng nghe một cách chân thành câu chuyện của thân chủ có
nghĩa là lắng nghe với sự hiện diện đồng thời của cả những gì được nói ra lẫn
những gì được thể hiện bằng cách thức không lời cùng với sự ảnh hưởng qua lại
giữa hai kiểu thể hiện đó. Bằng cách ấy, những biểu hiện không lời có thể trở
thành một cánh cửa để mở ra việc khám phá, tiếp cận các tầng sâu phức tạp trong
sự hiểu biết và trải nghiệm của các thành viên gia đình, và có lẽ quan trọng
hơn, nó giúp thiết lập một mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác giữa gia đình
và nhà trị liệu.
Peter Rober, PhD is clinical psychologist, family therapist
and family therapy trainer at Context -Center for marital and family therapy
(UPC KU Leuven, Belgium). He is full professor and teaches family therapy at
the Institute for Family and Sexuality Studies (medical school of K.U. Leuven,
Belgium). His research interest areas focus on the practice of family therapy
and on the therapy process, including especially the use of self of the
therapist and the therapist’s inner conversation. Peter Rober published several articles in international
family therapy journals. Since 1992, he has presented international workshops
on family therapy with children and adolescents. Every year in August he
organizes the European Summer School in Family Therapy in Leuven (Belgium),
together with Jaakko Seikkula, John Shotter, Justine van Lawick and Jim Wilson.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.