ÁP DỤNG CÁC LIỆU PHÁP CHƠI VÀ LIỆU PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG VIỆC HỖ TRỢ TÂM
LÝ TRẺ EM SỐNG TRONG MỘT SỐ CƠ SỞ BẢO TRỢ XÃ HỘI TẠI TP.HCM
(Toàn văn Bài tham luận của Chi hội Trăng Non tại HỘI THẢO ỨNG DỤNG TÂM LÝ HỌC VÀ GIÁO DỤC HỌC TRONG MỘT XÃ HỘI PHÁT TRIỂN do HỘI KHOA HỌC TÂM LÝ – GIÁO DỤC TP.HCM tổ chức tại TP. HCM, ngày 25-5-2013)
Nhóm tác giả nghiên cứu: Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Thị Thu Trúc, Cao
Huỳnh Thị Thương Mỵ, Hà Thị Huyền, Trần Thị Thu Vân, Trần Thị Yến, Phan Văn
Phúc, Nguyễn Thị Thủy, Lâm Mỹ Phương, Nguyễn Thị Hạnh Dân - Chi hội TRĂNG NON
PHẦN DẪN NHẬP
Chi hội Trăng
Non (thuộc Hội KH Tâm lý - Giáo dục Tp.HCM) ngay từ khi thành lập đã định hướng làm việc hỗ trợ cho các trẻ em và vị
thành niên có vấn đề khó khăn về tâm lý. Bên cạnh việc tiếp xúc hỗ trợ những trẻ
em có khó khăn tâm lý nhưng vẫn sống trong vòng tay gia đình, chúng tôi vẫn
không quên định hướng cho việc hỗ trợ tâm lý những trẻ em mồ côi, bất hạnh đang
sống và được nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội. Việc chọn lựa đối tượng
nghiên cứu là những trẻ mồ côi hoặc trẻ bị bỏ rơi, do vậy, đã là một trong các
định hướng làm việc chính của chúng tôi trong nhiều năm qua.
Bài báo cáo này
là tập hợp kết quả từ những thực hành lâm sàng mà tập thể hội viên và các cộng
tác viên Chi hội Trăng Non thực hiện cùng với các công trình nghiên cứu của
sinh viên do Trăng Non phụ trách hướng dẫn trong khoảng thời gian từ tháng
2-2006 cho đến tháng 5-2013 (trên thực tế cho đến nay vẫn còn đang tiếp tục thực
hiện). Chúng tôi mong việc trình bày các kết quả làm việc này sẽ đóng góp một
phần nhỏ vào những thành quả chung trong hoạt động của Hội Khoa học Tâm lý –
Giáo dục Tp. Hồ Chí Minh và cũng xem việc trình bày báo cáo này như một cách
tri ân những hội viên, cộng tác viên đã góp sức vào kết quả nghiên cứu chung của
Chi hội Trăng Non chúng tôi.
Phương
pháp nghiên cứu: Chủ yếu là nghiên cứu trường hợp (case study).
Đối
tượng nghiên cứu:
- Trẻ
mồ côi và trẻ mà gia cảnh có vấn đề nên phải sống và được nuôi dưỡng trong
các cơ sở bảo trợ xã hội (nhà mồ côi, mái ấm...)
- Các
liệu pháp tâm lý sử dụng phương pháp chơi (play therapy) hoặc nghệ thuật
(art therapy) áp dụng trong hỗ trợ tâm lý trẻ em
Khách
thể nghiên cứu: Một số trường hợp trẻ mồ côi và trẻ có gia cảnh khó
khăn sống trong cơ sở bảo trợ xã hội. Bao gồm:
- 10 trẻ mồ côi tại Trung tâm Mồ Côi – Khuyết tật Thị Nghè và Nhà Mồ côi Truyền Tin Quận Bình Thạnh (Công trình của Hà Thị Huyền – Khóa luận tốt nghiệp cử nhân tâm lý ĐH Văn Hiến Tp.HCM năm 2006)
- 5 trẻ mồ côi và bị bỏ rơi tại Mái ấm Ánh Sáng Quận 10 (1 trẻ ở nhà nuôi trẻ nam và 4 trẻ ở nhà nuôi trẻ nữ (Công trình hợp tác giữa các thành viên Trăng Non – BS Nguyễn Minh Tiến, Cử nhân Nguyễn Thị Thu Trúc, Cử nhân Cao Huỳnh Thị Thương Mỵ và mái ấm Ánh Sáng Q.10 từ cuối 2010 đến hết năm 2012)
- 1 trẻ bị bỏ rơi tại Mái ấm Pháp Võ, Huyện Nhà Bè, Tp.HCM (Trần Thị Yến – Khóa luận Tốt nghiệp cử nhân tâm lý ĐH Văn Hiến Tp.HCM năm 2011)
- 1 trẻ mồ côi khiếm thị tại Mái ấm Thiên Ân, Quận Tân Phú, Tp.HCM (Phan Văn Phúc – Khóa luận tốt nghiệp cử nhân tâm lý ĐH Văn Hiến Tp.HCM, năm 2012)
- 7 trẻ mồ côi và bị bỏ rơi tại Làng Trẻ em SOS Gò Vấp Tp.HCM (Công trình hợp tác giữa Trăng Non và Làng Trẻ em SOS Gò Vấp từ tháng 2 đến tháng 5-2013).
Giả
thuyết chung cho các nghiên cứu: Mặc
dù việc tiến hành thực hiện các nghiên cứu trường hợp có phần khác nhau về thời
gian, nơi chốn, hoàn cảnh làm việc, cũng như có sự khác biệt lớn về mục đích, mục
tiêu nghiên cứu ở từng trường hợp trẻ cần được hỗ trợ, chúng tôi vẫn hướng đến
việc đặt ra các giả thuyết chung nhất áp dụng trong tất cả các trường hợp
nghiên cứu khi áp dụng các liệu pháp chơi và nghệ thuật trị liệu cho trẻ như
sau:
- Chơi
và sáng tạo nghệ thuật là cách thức đứa trẻ giải bày và bộc lộ nội tâm
thay cho lời nói, từ đó giúp nhà trị liệu tâm lý hiểu trẻ và đối thoại được
với trẻ;
- Các
chất liệu tạo ra trong lúc chơi và sáng tạo nghệ thuật có tính ẩn dụ (metaphoric)
hoặc biểu trưng (symbolic) cho những nội dung và chủ đề thực tế mà trẻ
không trực tiếp nói đến. Do một số các vấn đề thực tế trong đời sống của
trẻ có thể có tính chất đau buồn hoặc dễ gây tổn thương, nên việc nói về
những chủ đề ấy một cách gián tiếp (thông qua chơi và sáng tạo nghệ thuật)
có thể giúp trẻ cảm thấy an toàn hơn khi giải bày;
- Thông
qua làm việc trên các chất liệu từ chơi và sáng tạo nghệ thuật, nhà trị liệu
có thể thực hiện các can thiệp và hỗ trợ cho trẻ, giúp trẻ giải tỏa các cảm
xúc tiêu cực, thiết lập quan hệ an toàn với nhà trị liệu, từ đó trẻ có thể
được hiểu, được nâng đỡ, có điều kiện khám phá các nguồn lực từ bản thân
và đương đầu tốt hơn với nghịch cảnh;
- Chơi
và sáng tạo nghệ thuật là những phương pháp có “tính năng kép”: vừa sử dụng
để chẩn đoán, đánh giá nội dung và mức độ của các vấn đề tâm lý của trẻ, vừa
để thông qua đó mà nhà trị liệu thực hiện những can thiệp hỗ trợ trẻ về mặt
tâm lý.
Trong phạm vi
bài tham luận hội thảo, chúng tôi xin phép trình bày những cơ sở lý luận chính
và phần tóm lược một số kết quả thu nhận bước đầu qua quá trình làm việc. Đây
chưa phải là một báo cáo khoa học đầy đủ. Chúng tôi xin phép được bảo mật các
thông tin cá nhân liên quan đến những trường hợp nghiên cứu, kể cả các thông
tin về lịch sử cá nhân lẫn những hình ảnh ghi lại các sản phẩm từ những buổi
làm việc thực tế (tranh vẽ, tượng, cảnh chơi... của trẻ). Hình ảnh nếu có trình
bày trong bài thì chỉ có tính chất minh họa.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP (CASE
STUDY)
Phương pháp
nghiên cứu trường hợp là phương pháp được chọn để nghiên cứu, khảo sát những
trường hợp cụ thể khi thực hành tâm lý lâm sàng. Còn gọi là nghiên cứu lịch sử
của trường hợp lâm sàng (clinical case history). Nền tảng của phương pháp này dựa
trên sự quan sát, mô tả và phân tích sâu sắc các vấn đề khác nhau xảy ra ở một
người, một nhóm người hoặc một sự kiện, hiện tượng nào đó.
Mỗi cuộc đời, mỗi
con người và những gì xảy ra trong cuộc đời của người ấy, đều là những hiện tượng
có tính độc đáo, riêng biệt, nên việc chọn phương pháp nghiên cứu trường hợp là
hoàn toàn thích hợp. Trong khi nhà tâm lý lâm sàng tiếp cận và hỗ trợ cho một
thân chủ, về bản chất công việc mà nhà tâm lý làm với thân chủ cũng là một
nghiên cứu trường hợp.
Có hai loại
nghiên cứu trường hợp: (1) Loại hồi cứu (retrospective) nhấn mạnh việc tìm hiểu
đi sâu về lịch sử của một cá nhân hoặc của nhiều người; và (2) Loại tiến cứu
(prospective) hoặc còn gọi là “nghiên cứu theo chiều dọc” (longitudinal study)
thường là nghiên cứu về kết quả của một sự kiện hoặc hoàn cảnh đặc biệt nào đó
mới xảy ra, ví dụ như ảnh hưởng của cái chết của bố mẹ lên sự phát triển của đứa
trẻ hoặc ảnh hưởng của việc đưa trẻ vào trại mồ côi đối với tâm lý của trẻ
vv...
Nghiên cứu trường
hợp trong tâm lý lâm sàng được thực hiện qua 4 bước chính (các bước không hoàn
toàn tách biệt mà vẫn có thể xen lẫn lên nhau trong quá trình thực hiện) như
sau:
- Thu thập thông tin cơ bản (Background
Information)
- Mô tả vấn đề đang vướng mắc (Description of The
Presenting Problems)
- Chẩn đoán hoặc đánh giá của người thực hiện
(Your Diagnosis)
- Các bước can thiệp (Intervention)
Nghiên cứu trường
hợp chú trọng việc tìm hiểu sâu các hiện tượng xảy ra trong bối cảnh đời thực của
một trường hợp cụ thể. Những mô tả đi theo tính chất tự nhiên vốn có, vốn đã xảy
ra của những con người và những sự kiện liên quan đến những người ấy. Nó cũng
đi theo dòng suy nghĩ và tâm trạng chủ quan của người thực hiện (nhà tâm lý lâm
sàng). Nó có tính chất độc đáo vì mỗi trường hợp là duy nhất, không lập lại ở
những trường hợp khác, và những tính chất độc đáo, riêng biệt đó không thể được
thấy trong các nghiên cứu thống kê được thực hiện trên số đông. Nghiên cứu trường
hợp cũng có thể cung cấp nhiều giả thuyết về các vấn đề bệnh lý khác nhau và
cũng có thể từ đó đặt giả thuyết về các cách thức xử lý chúng. Và khi nghiên cứu
trường hợp được thực hiện với sức thuyết phục cao, nó có thể cung cấp một bằng
chứng để phủ định những giả thuyết có thể đã từng được chấp nhận rộng rãi trước
đó.
Tuy nhiên, trong
nghiên cứu trường hợp, các dữ liệu thu thập có thể bị ảnh hưởng bởi tính chủ
quan của người thực hiện (nhà tâm lý lâm sàng) và cả do tính chủ quan của người
cung cấp dữ liệu (thân chủ). Kết quả nghiên cứu trường hợp không thể được khái
quát hóa, không có khả năng lập lại ở những nghiên cứu khác sau đó và do vậy
không đủ chứng cứ để xác lập liên hệ nhân quả giữa các sự kiện, hiện tượng.
Trong việc tập hợp
các kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đang thực hiện, chắc chắn cũng không thể
tránh khỏi những khuyết điểm mà phương pháp nghiên cứu này vốn có. Đó cũng là một
trong số những giới hạn quan trọng của việc tập hợp kết quả nghiên cứu của
chúng tôi.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC LOẠI LIỆU PHÁP
- Liệu pháp chơi (Play Therapy):
Từ lâu chơi đã
được biết là một nhu cầu thiết thân trong đời sống trẻ em, đặc biệt là trẻ nhỏ.
Chơi cũng được vận dụng như một cách thức để giáo dục cho trẻ nhỏ. Các nhà phân
tâm thời kỳ đầu như S. Freud và C. Jung đều xem việc chơi và sáng tạo nghệ thuật
ở trẻ em như là cách thức vừa để bộc lộ vừa để tiếp cận vô thức của trẻ, và giống
như giấc mơ, chúng là “con đường vương đạo (royal road) dẫn đến cõi vô thức”
theo cách nói của Freud. Các nhà phân tâm thời kỳ sau như Anna Freud và Melanie
Klein đã vận dụng chơi như một phương pháp trị liệu tâm lý cho trẻ có các vấn đề
nhiễu tâm (neurosis), trong đó các chất liệu và nội dung thể hiện trong khi trẻ
chơi được xem là có giá trị tương tự như lời nói của người lớn khi làm kỹ thuật
liên tưởng tự do (free association).
Với thời gian,
nhiều tác giả thuộc các trường phái tâm lý khác nhau đã điều chỉnh và phát triển
thêm các mô thức chơi liệu pháp, trong đó phải kể đến Virginia Axline, với Liệu
pháp Chơi không hướng dẫn (non-directive play therapy) một cách trị liệu tâm lý
cho trẻ em có vấn đề tâm lý theo kiểu “lấy đứa trẻ làm trọng tâm”
(child-centered) tương tự như cách thức tiếp cận nhân văn theo kiểu Liệu pháp
thân chủ trọng tâm (client-centered therapy) của Carl Rogers.
Liệu pháp chơi
không hướng dẫn là một phương pháp tiếp cận hiệu quả và ít gây xâm phạm
(non-intrusive) trong làm việc với trẻ em và người trẻ có vấn đề khó khăn tâm
lý. Liệu pháp này có thể được sử dụng bởi những nhà chuyên môn làm việc trực
tiếp với những trẻ em có vấn đề tổn thương về cảm xúc trong những cơ sở chăm
sóc trẻ em, các trung tâm sức khỏe tâm thần và cả những cơ sở làm công tác xã
hội thiện nguyện.
Liệu pháp chơi
không hướng dẫn được trình bày ở đây có liên quan đến việc thiết lập một mối
quan hệ đặc biệt một-một: giữa nhà trị liệu và một đứa trẻ; trong đó nhà trị
liệu tạo nên một bầu khí làm việc có tính an toàn và đáng tin cậy mà qua đó đứa
trẻ có thể cảm thấy tự do để giải bày và khám phá những cảm xúc cũng như những
ý nghĩ của chính bản thân trẻ. Đứa trẻ có thể giao tiếp một cách trực tiếp
thông qua lời nói (cả cách nói cụ thể lẫn cách nói có tính ẩn dụ) hoặc một cách
gián tiếp thông qua hành vi và nội dung chơi.
Công việc của nhà
trị liệu là lắng nghe, thấu hiểu và đáp ứng lại với trẻ bằng cách thức sao cho
có thể giúp trẻ hiểu được nhiều hơn những cảm xúc của chính mình. Những khía
cạnh tiêu cực về cảm xúc sẽ mất đi sức mạnh chi phối của chúng khi trẻ được
phép giải bày và được trải nghiệm những cảm xúc ấy trong một mối quan hệ có
tính chấp nhận giữa trẻ với nhà trị liệu. Điều được nhấn mạnh trong liệu pháp
này là giúp trẻ chuyển từ tình trạng phó mặc bản thân cho những cảm xúc giấu
kín kia sang trạng thái làm chủ hơn đối với những cảm xúc ấy.
Liệu pháp này
được dựa trên các nguyên lý của tâm lý trị liệu không hướng dẫn (non-directive
psychotherapy) được phát triển bởi Carl Rogers tại Hoa Kỳ và được điều chỉnh
bởi Virginia Axline để áp dụng vào trị liệu tâm lý cho trẻ em (được biết nhiều
thông qua hai tác phẩm Dibs in Search of Self năm 1964 và Play
Therapy năm 1987). Triết lý nền tảng của loại liệu pháp này chính là điều
hiện hữu trong tất cả mọi con người, đó chính là khuynh hướng tự hiện thực hóa
bản thân (self-actualization) cả ở người lớn lẫn ở trẻ em. Giả định được đặt ra
là khi trẻ có cơ hội tự do giải bày các cảm xúc của chính mình, trẻ sẽ tìm thấy
các giải pháp để giải quyết các khó khăn về cảm xúc của bản thân và trẻ sẽ sử
dụng nhà trị liệu cùng các trải nghiệm trong khi chơi để thực hiện điều đó.
Liệu pháp chơi
không hướng dẫn được phát triển một cách đầy đủ nhất là bởi Virginia Axline
thông qua hai quyển sách xuất bản năm 1964 và 1987, cùng một loạt các bài viết
và công trình nghiên cứu về chơi trị liệu. Mặc dù cùng thời gian nhiều tác giả
khác cũng có đề cập đến loại hình tiếp cận này như Allen (1942), Dorfman (1976)
và Moustakas (1953), Axline vẫn được xem là tác giả tiêu biểu nhất. Tác phẩm
đầu tiên (Axline, 1964) là sự cống hiến của bà trong một nghiên cứu về trường
hợp một đứa bé sáu tuổi, Dibs. Quyển sách đã thu hút nhiều độc giả như một báo
cáo đầy đủ về một mối quan hệ trị liệu, những cách thức mà một đứa trẻ thông
qua chơi có thể đạt được khả năng giải quyết vấn đề và làm chủ các xung đột nội
tâm của mình. Sách này đã được dịch sang tiếng Việt, được hiệu đính bởi cố tiến
sĩ tâm lý Tô Thị Ánh dưới nhan đề Sa Mạc
Nở Hoa rất nổi tiếng. Trong quyển sách thứ hai (Axline, 1987), bà đã nêu ra
8 nguyên tắc thực hành cho những nhà trị liệu chơi không hướng dẫn cùng những
ví dụ về những tình huống thường xảy ra trong phiên trị liệu.
- Nhà trị liệu phải phát triển một mối quan hệ thân
thiện, nồng ấm với đứa trẻ qua đó một mối liên hệ gắn bó phải được hình
thành càng sớm càng tốt.
- Nhà trị liệu phải chấp nhận đứa trẻ như chính con người
mà trẻ đang là.
- Nhà trị liệu phải giúp hình thành một cảm nhận về sự
cho phép trong mối quan hệ này sao cho trẻ cảm thấy tự do trong việc thể
hiện những cảm xúc của mình một cách trọn vẹn.
- Nhà trị liệu phải sáng suốt nhận ra những cảm xúc mà
trẻ đang thể hiện và phản ảnh lại bằng một cách thức sao cho trẻ có thể
thấu hiểu được những hành vi của chính bản thân mình.
- Nhà trị liệu duy trì một sự tôn trọng sâu sắc đối với
khả năng của trẻ trong việc tự giải quyết vấn đề của mình miễn là được tạo
cơ hội. Trách nhiệm lựa chọn và thực hiện sự thay đổi là việc của bản thân
đứa trẻ.
- Nhà trị liệu không cố gắng hướng dẫn trẻ làm gì, nói gì
dưới bất kỳ hình thức nào. Đứa trẻ là người dẫn đường; nhà trị liệu theo
sau.
- Nhà trị liệu không cố thúc đẩy tiến trình trị liệu đi
tới. Cần hiểu rằng đây là một tiến trình lâu dài, từ từ.
- Nhà trị liệu chỉ nên thiết lập những giới hạn cần thiết
để gắn kết tiến trình trị liệu với thực tế đời sống và giúp trẻ nhận ra
trách nhiệm của trẻ trong mối quan hệ trị liệu này.
(Axline, 1987: 73-74)
Axline cũng nhấn
mạnh rằng liệu pháp không hướng dẫn là một tiến trình hợp nhất, trong đó mỗi
nguyên lý nêu trên có tính đan xen và tương quan phụ thuộc với các nguyên lý
khác. Vì thế khi nhà trị liệu có lòng tin vào sức mạnh của thân chủ trong việc
tự giải quyết vấn đề sẽ mang lại khả năng chấp nhận thân chủ như chính con
người vốn có của họ, sẵn sàng cho phép thân chủ lựa chọn và sẵn lòng tôn trọng
các quyết định của họ. Tuy nhiên, sự chấp nhận như thế không có nghĩa là nhà
trị liệu chỉ là một người quan sát thụ động trong các phiên trị liệu. Nhà trị
liệu phải có khả năng tham gia tích cực, tạo lập bầu khí sao cho thân chủ có
thể làm rõ các vấn đề và khám phá khả năng của họ. Điều làm cho liệu pháp này
khác biệt với những cách thức can thiệp và các liệu pháp khác chính là bản chất
“không hướng dẫn”. Chính đứa trẻ là người chọn lựa các trọng tâm và chủ đề khi
chơi trong phòng trị liệu, bên trong những ranh giới, khuôn khổ được vạch ra
một cách cẩn thận. Vai trò của nhà trị liệu là tạo lập nên một mối quan hệ thân
tình và tin cậy lẫn nhau, phản ảnh và đáp ứng lại các ý nghĩ, cảm xúc và hoạt
động theo cách sao cho trẻ có thể tự giải quyết các vấn đề cảm xúc của mình
bằng chính cách thức mà trẻ lựa chọn và xảy ra với nhịp độ của chính đứa trẻ
đang thực hiện. Khác với những liệu pháp khác, sự phản ảnh mà nhà trị liệu thực
hiện không bao gồm sự khen thưởng, diễn giải hoặc thách thức. Các giới hạn
trong phòng trị liệu phải được thiết lập. Nhà trị liệu phải đảm nhận trách
nhiệm của một người lớn trong việc bảo đảm sự an toàn cho trẻ, gìn giữ vật liệu
chơi, phòng chơi và ấn định khuôn khổ thời gian làm việc. Bên trong những giới
hạn được thiết lập rõ ràng như thế, bầu khí của phòng chơi trị liệu phải thực
sự thư giãn. Hành vi và cách giao tiếp của nhà trị liệu phải tạo nên nơi trẻ
những cảm nhận về sự an toàn và tin cậy, từ đó nếu trẻ muốn, trẻ sẽ tự do giải
bày và khám phá các chủ đề nổi trội trong cảm xúc của trẻ.
Chơi trị liệu
được dựa trên một thực tế rằng chơi là môi trường tự nhiên để đứa trẻ tự thể
hiện bản thân. Đó chính là cơ hội để trẻ bộc lộ ra qua chơi (“play out”) những
cảm xúc và vấn đề của trẻ; cũng giống như một số loại liệu pháp ở người lớn,
một cá nhân có thể nói ra (“talk out”) các khó khăn của mình
Axline, 1987
- Liệu pháp nghệ thuật (tranh vẽ/nặn tượng)
(Art Therapy)
Nghệ thuật trị
liệu, một phương pháp được áp dụng trong trị liệu các vấn đề về sức khỏe tinh
thần, được hình thành và phát triển từ khoảng cuối thập niên 1940. Tại Anh,
Adrian Hill được biết đến như là nhà tiên phong sử dụng thuật ngữ này để nói về
việc tạo hình ảnh trong ứng dụng trị liệu. Ông là người tìm thấy lợi ích trị
liệu của hoạt động sơn vẽ. Theo ông, giá trị của nghệ thuật trị liệu nằm ở chổ:
nó hoàn toàn choáng hết tâm trí, giải phóng năng lực sáng tạo, và nó có thể
kích hoạt bệnh nhân xây dựng hàng rào tự vệ mạnh mẽ đối với những biến cố không
may.
Cùng khoảng thời
gian này, tại Mỹ, nhà tâm lý học Margaret Naumberg cũng dùng thuật ngữ này cho
công việc trị liệu của mình. Bà cho rằng đây là phương pháp giải phóng vô thức
thông qua sự bộc lộ nghệ thuật một cách tự phát. Gốc rễ của nó là mối quan hệ
chuyển di giữa bệnh nhân và nhà trị liệu trong khung cảnh khuyến khích liên tưởng
tự do. Phương pháp này gần gũi với lý thuyết phân tâm. Việc trị liệu được dựa
trên sự phát triển của mối quan hệ chuyển di và hiệu quả tiếp nối của việc tự
diễn giải các biểu tượng được tạo ra bởi bệnh nhân. Sản phẩm tạo ra là một dạng
của giao tiếp giữa nhà trị liệu và bệnh nhân, chính họ tạo nên ngôn ngữ biểu
tượng.
Đến nay, nghệ
thuật trị liệu phát triển theo hai nhánh: (1) Sử dụng nghệ thuật như là một
phương pháp tự thân nó có tính trị liệu và (2) Liệu pháp tâm lý trong đó sáng
tạo nghệ thuật là môi trường để thực hiện sự giao tiếp và tương tác giữa nhà
trị liệu và thân chủ. Nhánh tiếp cận đầu nhấn mạnh tiềm năng chữa lành của nghệ
thuật, trong khi đó, nhánh thứ hai nhấn mạnh vào mối quan hệ trị liệu được
thiết lập giữa nhà nghệ thuật trị liệu và thân chủ trong hoạt động có tính nghệ
thuật. Điều quan trọng phân biệt hai nhánh quan điểm này là việc đặt trọng tâm
sự thay đổi có tính trị liệu nằm ở đâu. Trong nghệ thuật trị liệu, động lực
thúc đẩy tiến trình trị liệu là một bộ ba quan hệ giữa nhà trị liệu, thân chủ
và hoạt động nghệ thuật. Tùy vào giai đoạn làm việc, mối quan hệ giữa hai trong
ba nhân tố của bộ ba này sẽ được nhấn mạnh để đạt đến hiệu quả trị liệu.
Theo quan điểm
đương thời, nghệ thuật trị liệu được xem là một trong những phương pháp trị
liệu tạo nên tranh, ảnh hoặc vật thể - gọi chung là các tác phẩm nghệ thuật có
thể nhìn thấy được (visual arts); và quá trình sáng tạo nghệ thuật ấy đóng vai
trò trung tâm trong mối quan hệ giữa nhà nghệ thuật trị liệu và thân chủ.
Hiệp hội các nhà nghệ thuật trị liệu Anh Quốc định nghĩa: Nghệ thuật trị liệu là việc
sử dụng chất liệu nghệ thuật cho việc tự bộc lộ và phản ánh dưới sự hiện diện
của một nhà nghệ thuật trị liệu đã được huấn luyện. Thân chủ tham gia tiến
trình nghệ thuật trị liệu không cần có kỹ năng hoặc trải nghiệm về nghệ thuật
trước đó. Khởi đầu, nhà nghệ thuật trị liệu không chú tâm đến việc đánh giá
khiếu thẩm mỹ hay chẩn đoán bệnh nhân trên sản phẩm nghệ thuật của họ. Mục tiêu
chung của các nhà thực hành là phải thúc đẩy thân chủ thay đổi và trưởng thành
lên mức độ mới thông qua sử dụng chất liệu nghệ thuật trong điều kiện an toàn
và dễ dàng.
Hiệp hội nghệ thuật trị liệu Mỹ định nghĩa: Nghệ thuật trị liệu như là
hoạt động nghệ thuật được sử dụng có tính trị liệu, trong mối quan hệ chuyên
nghiệp, bởi những người có trải nghiệm bệnh tật, sang chấn, đang đương đầu với
những thách thức trong cuộc sống hoặc những người tìm kiếm sự phát triển nhân
cách. Thông qua tiến trình sáng tạo nghệ thuật và phản ánh bản thân trên sản
phẩm nghệ thuật, con người có thể tăng trưởng nhận thức về bản ngã và về người
khác, đương đầu với những triệu chứng, sự căng thẳng, kinh nghiệm sang chấn,
nâng cao khả năng nhận thức và trải nghiệm cuộc sống qua sự thư giãn trong hoạt
động nghệ thuật.
Hiệp hội nghệ thuật trị liệu Canada và Hiệp hội nghệ thuật
trị liệu quốc gia Úc định nghĩa: Nghệ thuật trị liệu là một hình thức tâm lý trị liệu, cho
phép bộc lộ và chữa lành cảm xúc thông qua những phương tiện không lời. Trẻ em
thường không thể dễ dàng bộc lộ bản thân qua lời nói. Còn người lớn thường dùng
lời để biến hóa và tạo khoảng cách với cảm xúc của mình. Nghệ thuật trị liệu có
thể khiến cho thân chủ phá vỡ những hàng rào ngăn trở này để tự bộc lộ qua việc
sử dụng chất liệu nghệ thuật.
Bản chất của nghệ
thuật trị liệu nằm ở chỗ mối quan hệ có thể thiết lập giữa nghệ thuật và trị
liệu. Mối quan hệ này tiềm ẩn sự xung đột giữa hai khuôn khổ. Đây không phải là
“đôi bạn đồng hành dễ chịu”. Trong nghệ thuật trị liệu mối quan hệ này đặc biệt
tập trung vào những thể loại nghệ thuật thị giác (sơn, vẽ, nặn tượng) và thường
không bao hàm việc sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như nhạc, kịch hoặc
nhảy múa.
Mặc dù giao tiếp
của con người có nhiều dạng khác nhau, nhưng giao tiếp dùng ngôn từ có xu hướng
thống lĩnh hơn cả. Ngôn từ không chỉ là phương tiện chính để chúng ta trao đổi
thông tin về thế giới xung quanh, mà đối với hầu hết mọi người, ngôn từ còn là
phương tiện chính có sẵn để diễn tả và giao tiếp với thế giới đó. Thông qua
ngôn từ, hầu hết chúng ta đều cố gắng để định hình và gán ý nghĩa cho những
trải nghiệm của mình. Tuy nhiên, trải nghiệm của con người lại không thể chuyển
tải hết qua ngôn từ. Một số trải nghiệm và tâm trạng cảm xúc vượt ra ngoài khả
năng diễn đạt bằng ngôn từ. Cảm nhận về tình yêu và sự thù hận, về nỗi tuyệt
vọng và các sang chấn tâm lý khó có thể dùng ngôn từ để diễn đạt một cách chính
xác. Điều này đặc biệt liên quan đến những khó khăn có nguồn gốc thời thơ ấu.
Tại điểm này, nghệ thuật trị liệu cung cấp một phương thức để vượt qua những cảm
nhận khó chịu như nản lòng, khủng hoảng và cô độc, bằng cách chọn lựa một cách
thức trung gian để giao tiếp và diễn đạt mà ở đó cảm giác có thể được bày tỏ và
được người khác hiểu.
Trong bối cảnh
một mối quan hệ có tính nâng đỡ, thông qua việc tạo dựng những hình ảnh do thân
chủ sử dụng trí tưởng tượng của mình để thể hiện tư duy và cảm xúc, cùng với sự
lãnh nhận những thách thức, có thể giúp thân chủ trở nên trưởng thành hơn về
mặt cảm xúc, gia tăng lòng tự trọng, thống hợp các đặc trưng tâm lý và xã hội
của bản thân mình.
- Liệu pháp khay cát (sandtray hoặc
sandplay therapy)
Trò chơi trên cát
là một loại công cụ sử dụng trong chơi trị liệu (play therapy) – một
hình thức tâm lý trị liệu cho trẻ nhỏ có vấn đề tâm lý, đôi khi có thể áp dụng
cho cả trẻ lớn, vị thành niên, cá nhân người lớn hoặc cả gia đình. Những hình
mẫu thu nhỏ (miniatures), tượng trưng cho những con người, thú vật, hoặc
sự vật thông thường có thật trong thực tế, sẽ được sử dụng để tạo nên những bối
cảnh và nội dung chơi trên bề mặt của cát. Tên thông dụng trong tiếng Anh chỉ
cách làm này là sandplay (trò chơi trên cát) hoặc sandtray therapy
(liệu pháp chơi trên khay cát), hoặc như cách gọi tên của Magaret Lowensfeld
(tác giả của phương pháp) là World Technique (Kỹ thuật Thị hiện Thế
giới). Phép tiếp cận này được sử dụng trong một bối cảnh có tính nghi thức, có
sự chuyển tiếp hoặc như một phương pháp chữa lành các sang chấn, đau khổ về
tinh thần. Trong bài này để đơn giản chúng tôi sẽ gọi tên phương pháp là “Trò
chơi trên cát” khi gọi với ý nghĩa chung và “liệu pháp khay cát” khi phương
pháp được áp dụng trong bối cảnh trị liệu tâm lý.
Liệu pháp khay
cát được phảt triển nên bởi bác sĩ Magaret Lowensfeld trong thập niên 1920 do
bà đã cảm hứng khi đọc Floorgames (Trò chơi trên sàn nhà) của H.G. Wells
(1906), và được áp dụng tại Trung tâm Trị liệu Trò chơi tại Luân Đôn, Anh quốc.
Wells và các con trai của mình đã cùng chơi những trò chơi trên sàn nhà; họ
chọn lấy đồ chơi là những hình mẫu thu nhỏ để bày ra những cảnh chơi đầy kịch
tính trên sàn nhà của một căn phòng sau khi đã dọn sạch các vật dụng khác.
Những trò chơi này đã cho phép gia đình của Wells có được một phương tiện để
khám phá đời sống và Wells cũng đã khuyến cáo nhiều người lớn cùng với trẻ em
nên tham gia vào một tiến trình chơi như thế.
Lowensfeld, cũng
giống như Freud, Klein và Winnicott, hiểu rằng trẻ em cần có những loại công cụ
khác không phải ngôn ngữ để có thể giao tiếp và có thể tạo nên ý nghĩa cho
những trải nghiệm của mình. Bà cũng nhận ra hoạt động chơi có khả năng giúp chuyển
biến và tổng hợp lại những thế giới quan còn hạn chế của trẻ. Bằng sự thông
thái của mình, bà đã không chỉ đưa thêm vào khay đựng những nội dung chơi mà
còn cho cả cát và nước vào để cho phép đứa trẻ giải bày ra những trạng thái
sinh học và siêu hình rất phức tạp. Bộ công cụ này nhằm giúp trẻ cảm nhận được
các trải nghiệm của mình chứ không giúp gia tăng khả năng diễn giải của nhà trị
liệu về thực tại của đứa trẻ.
Liệu pháp khay
cát là một hình thức tâm lý trị liệu có tính năng động và diễn đạt, giúp cho
thân chủ có thể giải bày thế giới nội tâm của họ thông qua các biểu tượng và
hình ảnh ẩn dụ. Liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn nhấn mạnh đến việc
hình thành một mối quan hệ trị liệu sâu sắc và có tính chấp nhận, cùng với một
cách tiếp cận xử lý nội dung trong khay cát chủ yếu dựa trên những trải nghiệm
của thân chủ tại đây và ngay lúc này (here-and-now).
Quan điểm nhân
văn tin rằng khi con người tăng trưởng và phát triển ở lứa tuổi trẻ em và vị
thành niên, họ sẽ có thể bị mất đi mối liên lạc với chính con người mà mình
đang là. Họ có thể đã học cách chấp nhận một số cảm xúc nào đó và không chấp
nhận những cảm xúc khác. Trong tiến trình chối bỏ những gì thuộc về con người
thật của mình, họ có thể trở nên mất liên lạc với bản ngã thực sự của chính
mình. Liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn mang đến những trải nghiệm
về sự tái kết nối của con người với bản ngã chân thực của mình và giúp con
người trở lại khám phá các ước mơ, hy vọng và tầm nhìn của mình.
Giống như liệu
pháp chơi (play therapy) ở trẻ nhỏ, liệu pháp khay cát mang lại một trải
nghiệm có tính chủ động, không lời, gián tiếp và mang tính biểu tượng. Giai
đoạn tạo cảnh (scene creation phase), trong đó thân chủ sắp đặt các hình
mẫu thu nhỏ vào trong khay cát, là một giai đoạn rất quan trọng và cũng là giai
đoạn trung tâm đạt đến các trải nghiệm từ khay cát. Trong liệu pháp khay cát
theo trường phái nhân văn, giai đoạn xử lý (processing phase) sẽ mang
lại thêm những trải nghiệm vốn đã hình thành trong giai đoạn tạo cảnh và cho
phép suy xét lại trải nghiệm ấy. Thông qua giai đoạn xử lý, thân chủ có thể
nhìn lại bối cảnh trong khay và trải nghiệm về tác động của nó.
Tất cả các thành
phần như khay cát, những hình mẫu thu nhỏ, không gian an toàn trong khay cát,
những lời nói sử dụng trong khi chơi trên cát và cả công việc trong giai đoạn
xử lý đều có tầm quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả trị liệu. Khay cát là
một loại công cụ sử dụng cho các hoạt động nghệ thuật mang tính giải bày, diễn
đạt. Những gì mà khay cát mang lại bao gồm:
- Một môi trường được cấu trúc tốt qua đó những hình ảnh
ẩn dụ của thân chủ sẽ được tạo lập và được khám phá.
- Một sự trình bày bằng cách hiển thị các vấn đề của thân
chủ để quá trình làm việc giữa nhà trị liệu và thân chủ có thể tập trung
vào những chủ đề cốt lõi trong suốt phiên trị liệu. Thân chủ có thể nhìn
đi nhìn lại những biểu tượng trong quang cảnh mà mình đã tạo dựng, ngay cả
khi họ đã khám phá chúng và từ đó thực hiện những sự hướng dẫn từ bên
ngoài trở về vấn đề của họ.
- Một trải nghiệm sâu sắc đối với thân chủ. Thân chủ
thường ngày hay tránh né sự trải nghiệm đầy đủ về những cảm xúc của mình.
Khay cát có thể tạo điều kiện cho thân chủ đi sâu khám phá bản ngã của họ.
- Một phương tiện gián tiếp giúp thúc đẩy các hoạt động
có tính trị liệu cho những thân chủ bị bế tắc. Khi thân chủ xem xét các
hình ảnh ẩn dụ của họ tạo nên, họ có thể vượt qua các phản ứng phòng vệ và
hóa giải các phản kháng.
Liệu pháp khay cát có thể
được sử dụng cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên, vị thành niên và cả người lớn. Giống
như liệu pháp chơi, thân chủ được trị liệu với khay cát cũng thể hiện bản thân
theo cách ẩn dụ. Mặc dù trong giai đoạn xử lý, nhà trị liệu sử dụng lời nói
nhiều hơn trong liệu pháp chơi dành cho trẻ nhỏ, việc sử dụng và xử lý hình ảnh
ẩn dụ cũng tương tự như trong liệu pháp chơi.
Nhà trị liệu theo trường phái
nhân văn xem thân chủ là những người có khả năng tự hiện thực hóa bản thân và
vốn có sẵn khuynh hướng phát huy tiềm năng của mình. Họ có thể tự nhận biết bản
thân mình và chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Con người là sinh vật
có tính xã hội và có nhu cầu mạnh mẽ muốn kết nối với người khác. Trong liệu
pháp nhân văn, mối quan hệ trị liệu là nguồn lực nền tảng tạo nên những thay
đổi có tính xây dựng ở thân chủ (Cain, 2002). Mục đích cơ bản của mối quan hệ
trị liệu là tạo nên một bầu khí tối ưu thuận lợi cho sự tăng trưởng xảy ra.
Rogers đã viết: “Hầu hết trẻ em, nếu được sống trong một môi trường bình thường
đáp ứng phù hợp với những nhu cầu về cảm xúc, trí tuệ và xã hội của trẻ, đều có
khuynh hướng đạt đến sự lành mạnh để đáp ứng và thích nghi với đời sống”
(Kirschenbaum, 1979).
Khi nhà trị liệu gặp thân
chủ, dù là trẻ em hay người lớn, họ thậm chí còn cần nhiều hơn một “môi trường
bình thường phù hợp” như thế, bởi vì họ đã không thể có được lòng tin của một
trẻ nhỏ. Vì vậy, việc thiết lập một bầu khí tối ưu cho tăng trưởng là điều
tuyệt đối quan trọng. Mối quan hệ trị liệu là trung tâm của bầu khí này, và khả
năng tự nhận biết bản thân cùng với kỹ năng của nhà trị liệu có thể tạo nên bầu
khí này và làm chất xúc tác cho sự tăng trưởng nơi thân chủ.
Trong liệu pháp khay cát, nhà
trị liệu tạo lập một không gian an toàn và có tính chấp nhận để thân chủ có thể
đối diện với các chủ đề cốt lõi của họ. Giống như trong liệu pháp chơi, bản
chất mang tính ẩn dụ của khay cát giúp tạo nên một khoảng cách an toàn để thân
chủ có thể giải bày những cảm xúc đau khổ của họ. Khay cát cho phép thân chủ
bộc lộ bản thân họ dưới hình thức những biểu tượng không lời, đồng thời tạo nên
một sản phẩm phóng chiếu có tính thị hiện những thực tại chủ quan trong nội tâm
cũng như trong các mối quan hệ của thân chủ.
Các
nguyên tắc cơ bản khi làm việc với trẻ
1. Phát triển một
mối quan hệ thân thiện và nồng ấm với đứa trẻ.
2. Chấp nhận hiện
trạng của đứa trẻ như nó đang thật sự biểu hiện.
3. Thiết lập một cảm
giác lạc quan, cho phép trẻ tự do giải bày cảm xúc.
4. Nhận diện và đáp
ứng lại với những cảm xúc của trẻ theo một cách thức sao cho đứa trẻ tự hiểu
được ý nghĩa của những hành vi của nó.
5. Trông đợi ở trẻ
một khả năng tự giải quyết vấn đề và có trách nhiệm trong việc lựa chọn quyết
định cũng như thực hiện quyết định đó.
6. Tránh việc hướng
dẫn hành vi và lời nói của trẻ; nhà trị liệu cần phải “đi theo” sự hướng dẫn
của đứa trẻ.
7. Trị liệu là một
quá trình từ từ, không có gì phải vội vã.
8. Đặt ra một ít giới hạn cần thiết cho việc trị liệu và giúp trẻ
có trách nhiệm trong trị liệu.
|
CÁC KẾT QUẢ BAN ĐẦU
Về hình vẽ
Hình vẽ là một
công cụ có chức năng “kép”, vừa để đánh giá, chẩn đoán, vừa để nhà trị liệu có
thể thực hiện những can thiệp, hỗ trợ tâm lý cho trẻ. Những hình vẽ của trẻ
chứa đựng các nội dung có tính ẩn dụ cao, tiết lộ nhiều điều về hoàn cảnh và
nhân thân của trẻ.
Trong công trình
của Hà Thị Huyền (2006), có 9/10 trường hợp trẻ vẽ hình cây. Cách thể hiện phổ
biến là vẽ cây đơn độc hoặc cây có quả hoặc lá lìa cành. Phần lớn các trẻ vẽ
cây không có rễ và không có hoặc có ít cành nhánh. Chỉ có 1/9 trường hợp vẽ cây
có rễ và cành, nhưng cây này rất mỏng manh và lửng lơ như đang bay đi xa dần
(Huyền, 2006). Thân cây từ gốc đến ngọn gần như bằng nhau, mà theo các nhà
nghiên cứu cách vẽ ấy nói lên việc trẻ khao khát tình thương; cây không có gốc
rễ được giả định là có liên hệ về mặt ý nghĩa với việc trẻ không biết rõ nguồn
gốc xuất thân của mình; lá hay quả lìa cành cũng nói lên việc trẻ xa lìa gia
đình gốc của mình...
Nghiên cứu của
Huyền cũng nhận thấy, mặc dù với đối tượng là trẻ mồ côi hoặc bị gia đình bỏ
rơi, hầu hết trẻ đều thể hiện nội dung gia đình qua tranh vẽ. Thể hiện chính là
những thành viên trong gia đình, với những sinh hoạt bên trong một ngôi nhà.
Một nửa số trẻ (5/10) tái hiện lại nội dung cái chết của cha hoặc mẹ. Có 3/10
trẻ khi được yêu cầu vẽ gia đình thì thể hiện cảnh sinh hoạt của một nhóm người
(không phải gia đình). Một số còn lại nhắc đến nội dung gia đình theo kiểu hình
ảnh ẩn dụ (thông qua chuyện về thú vật). Điều này cho thấy, chủ đề gia đình
thường xuyên là chủ đề rất đáng quan tâm của trẻ, dù qua hình vẽ trẻ đang nói
về một gia đình tưởng tượng, mơ ước, hoặc trẻ nói về những ký ức về gia đình
trước đây, hoặc có khi chỉ nêu cách nhìn của trẻ về gia đình thay thế đó chính
là môi trường mái ấm mà trẻ đang cư ngụ.
Một số trẻ từ
chối khi yêu cầu vẽ hình người (8/10), nhưng khi yêu cầu tiếp tục có 5 trẻ vẽ
hình người. Những hình vẽ người có thể dưới dạng mặt ma quái (1 trường hợp),
người không tay chân (1 trường hợp), hình vẽ người như hình cây có mặt người (1
trường hợp), 1 trường hợp vẽ hình người đầy đủ nhưng được quy là một người khác
(trẻ gọi là “chị” cùng sống trong mái ấm). Những kết quả này gợi ý về các kỷ
niệm đau buồn hoặc sang chấn có thể có liên quan đến con người và hình ảnh về
con người.
Một số hình ảnh
tự do của trẻ có những nội dung dị thường, siêu nhiên như ma quái, Phật, thiên
đường... (3 trường hợp); hoặc những cảnh tượng liên quan đến thiên tai như núi
lửa phun trào... (1 trường hợp). Những nội dung này có thể liên quan đến tâm
trạng lo âu, hoặc tâm trạng hoang mang trước các thực trạng đời sống. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu ban đầu năm 2006 chỉ giới hạn trong phạm vi
có tính khảo sát cách thể hiện cảm xúc của trẻ (chứ không thực hiện nghiên cứu
ca và can thiệp tâm lý) nên những diễn giải trên chỉ dừng lại ở mức độ giả
thuyết chứ không đủ điều kiện kiểm chứng thông qua hoàn cảnh sống thực tế của
trẻ.
Trong nghiên cứu
của Trần Thị Yến (2011), tranh vẽ cũng được thực hiện bởi một cặp trẻ gái sinh
đôi 12 tuổi. Trong tranh vẽ của cô em thì có những nội dung tương phản, đối lập
trên một tranh vẽ: Một nửa bên trái vẽ cảnh trẻ em vui chơi; nửa bên phải lại
vẽ một lọ đựng hoa bị nứt nẻ. Nội dung ấy như thể ẩn dụ cho một vật lẽ ra lành
lặn để chứa đựng và bảo vệ cho hoa (ẩn dụ cho gia đình với trẻ?) lại bị nứt và
mất công năng chứa đựng, bảo vệ cho hoa. Trong khi đó, cô chị vẽ một bức tranh
với một nội dung tang thương như sau: Một chiếc thuyền chở một gia đình 4 người
bị cướp biển giết chết, một người bị ném xuống biển, có cả một hộp sữa của trẻ
em đang uống dở dang cũng bị rơi và nổi trên mặt nước. Những hình vẽ như thế
phần nào bộc lộ những cách thức mà trẻ nhìn và hiểu thế giới xung quanh cũng
như về chính đời sống của trẻ. Thay cho lời nói, hình vẽ giúp trẻ kể cho chúng
ta nghe những câu chuyện quan trọng.
Một trẻ trai 11
tuổi, có biểu hiện ương bướng, chống đối, câm lặng khi người lớn hỏi chuyện
cũng thể hiện tranh vẽ về một chuồng gà (Tiến, 2010). Gà mẹ ngủ quên để một
trong số những quả trứng rơi ra khỏi chuồng mà không hay biết. Trẻ sau đó đã kể
tiếp câu chuyện rằng gà trống thức dậy và đi tìm được quả trứng bị rơi. Vẽ xong
trẻ nhanh chóng dùng bút xóa hết những gì đã vẽ. Bé trai ấy đã phần nào biết
được lai lịch của mình một cách gián tiếp qua một phụ nữ mà trẻ biết là mẹ
nuôi. Trong thực tế, cha mẹ ruột của trẻ đã bỏ rơi trẻ khi trẻ mới chỉ khoảng 1
tuổi. Họ đến thuê phòng một một nhà trọ, rồi bỏ con lại. Người phụ nữ chủ nhà
trọ đã giữ trẻ nuôi một thời gian, nhưng sau đó gửi trẻ vào mái ấm. Vào lúc trẻ
vẽ hình quả trứng bị rơi khỏi chuồng, trẻ đang có biểu hiện chống đối các giáo
dục viên của mái ấm, có lúc đòi bỏ mái ấm đi tìm mẹ.
Trong can thiệp
hỗ trợ tâm lý cho một trường hợp trẻ khiếm thị mồ côi sống trong mái ấm (Phúc,
2012), phương pháp sử dụng hình vẽ đã được thay thế bằng việc sử dụng đất nặn.
Tác phẩm nghệ thuật được chuyển từ tranh vẽ dành cho trẻ “sáng” thành các vật
thể làm từ đất nặn để có thể được nặn và sờ chạm bởi trẻ khiếm thị. Trường hợp
được nghiên cứu là một trẻ nữ 14 tuổi, bị bỏ rơi từ nhỏ và được đưa rất xa từ
miền Bắc vào một mái ấm tại Tp.HCM. Khi sử dụng đất nặn, chủ đề “chiếc lá lìa
cành” và “quả trái bị dư thừa” được trẻ nói đến: Quả trái dư thừa, nó là cái quả cuối cùng trên cây, nhưng đến một ngày
chiếc lá rụng đi, cái quả này không thể chịu đựng nổi. Cô đơn chồng cô đơn. Nó
hy vọng có thể rơi xuống và vỡ tan cùng chiếc lá. Có lẽ đó là giải pháp tốt
nhất... – Trích lời của trẻ nói (Phúc, 2012).
Nói chung, thông
qua sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật như tranh vẽ, nặn tượng, trẻ mồ côi và trẻ
bị bỏ rơi thường cố gắng thông tin cho nhà trị liệu về hoàn cảnh, nhân thân của
trẻ, hoặc thể hiện những nỗi lo sợ của trẻ về những hoàn cảnh ấy. Việc bộc lộ
như thế rất khó cho trẻ nếu phải diễn đạt thành lời nói. Chỉ thông qua những
hình ảnh có tính ẩn dụ và ở trong một môi trường có tính an toàn với sự thấu
cảm, tôn trọng của nhà trị liệu, trẻ mới có thể thoải mái hơn và tự do hơn
trong việc bộc lộ. Tự thân việc bộc lộ ấy với sự hiện diện của nhà trị liệu đã
có tính chất chữa lành những đau thương và lo âu của trẻ.
Chơi
Như đã nêu, các
nội dung chơi của trẻ cũng hàm chứa những câu chuyện kể có tính ẩn dụ. Một bé
gái 6 tuổi trong làng trẻ mồ côi vào buổi chơi đầu tiên đã nhận lầm mấy viên
long não để ở gầm tủ là những trứng thằn lằn. Bé gái khăng khăng đòi đập vỡ
những “quả trứng thằn lằn” ấy là sẽ thấy những thằn lằn con trong đó (Thu Trúc,
Hạnh Dân, 2013). Mặc dù sau khi đã đập vỡ những viên long não và thấy chẳng có
gì bên trong nhưng bé vẫn tiếp tục đập thêm những viên khác... Câu chuyện không
được tiếp tục, nhưng dường như chủ đề về “quả trứng” với “thằn lằn con bên
trong” cũng gợi ý về những mối bận tâm của trẻ đối với quá trình thai nghén và
sinh nở chăng?
Song song với
việc sử dụng đồ chơi để tạo cảnh, bé gái ấy cũng hay kể những câu chuyện bịa.
Trẻ kể về những người anh, người chị, về “hồi em còn nhỏ”, “em được bú sữa
bình”... Trẻ dường như cố gắng tưởng tượng và hình dung về giai đoạn còn nhỏ
đầy khó khăn của mình vì trong thực tế cả bố lẫn mẹ của trẻ lần lượt bị bệnh
lao và mất sớm. Lúc chỉ mới 2 tuổi, trẻ phải về sống với người cô út, rồi sau
đó được nhà ngoại gửi vào làng trẻ mồ côi.
Những buổi chơi
sau đó của trẻ với 2 cô tâm lý phần nào giúp trẻ thoải mái hơn, tự nhiên hơn
trong biểu lộ và nói chuyện. Sau 5 buổi, trẻ bắt đầu nói chuyện thực tế hơn, ít
bịa chuyện và trong buổi thứ 5, trẻ vẽ một bức tranh có ngôi nhà với những đứa
trẻ đang vui chơi bên ngoài. Trẻ nói về cái chết của bố mẹ “ba em chết, rồi mẹ
em cũng chết. Em và H (em của trẻ) còn nhỏ lắm. H vào đây (làng trẻ mồ côi)
trước em”. Trẻ nói như thể đang chấp nhận dần thực tế đau buồn của trẻ và cũng
buổi ấy, bé đề nghị được mang bức tranh ngôi nhà mà mình đã vẽ đem về nhà ở của
mình trong làng. Vào buổi sau cùng, trẻ vẽ một bức tranh tối màu, bên trong
cũng có hình một ngôi nhà mà trẻ gọi tên là “nghĩa địa” nhưng không nói gì
thêm. Và trẻ xin mang cả 2 bức tranh sau cùng ấy về nhà ở của mình trong làng,
với mong muốn được treo ảnh ở một chỗ riêng biệt để tưởng nhớ bố mẹ của mình.
Các cô tâm lý của nhóm Trăng Non hội ý với bà mẹ nuôi trẻ trong làng cùng giúp
trẻ thực hiện ý nguyện như một nghi thức “đưa tang” của trẻ đối với bố mẹ của
mình. Những trạng thái cảm xúc của trẻ được ghi nhận sau đó là khá tích cực.
Trẻ vui vẻ ôm tranh đi về nhà ở, khoe với mọi người và có vẻ rất tự hào về việc
này.
Trên đây chỉ là
mô tả về việc sử dụng các công cụ chơi và tranh vẽ trên một trường hợp minh
họa. Nhiều cảnh chơi trong những trường hợp lâm sàng khác cũng rất phong phú,
nhưng trong phạm vi bài tham luận này chúng tôi khó thể kể hết. Một số hoạt
cảnh chơi ở các bé trai có nhiều phần thể hiện tính xung đột và bạo lực cao như
xe húc nhau, thú rượt đuổi hoặc ăn thịt nhau vv... Phần nào cũng nói lên sự yếu
đuối và lo âu của trẻ.
Chơi trên khay cát
Minh họa trường
hợp: (Mỵ, Phương, 2013) Một trẻ nữ 16 tuổi, trình bày cảnh chơi trên khay cát
với 4 khu vực khác nhau: Góc 1 gồm những con thú ăn cỏ hiền lành, đang đi lại
nhởn nhơ; góc 2 với những con thú dữ như sư tử và báo đang rình rập những thú
hiền; góc 3 là hồ nước có tôm cá và hà mã bên dưới nhờ có nước che chắn nên khá
an toàn và góc 4 có những con rắn len lỏi dưới những tảng đá và một con khỉ
đang ngồi quan sát. Con khỉ dường như biết rõ mọi chuyện đang diễn ra trước
mắt, nó có thể thấy thú dữ khi nào sẽ ăn thịt những con thú hiền, dù những con
này chẳng hề hay biết nguy hiểm đang chờ đợi mình. Lẫn trong khung cảnh chung
ấy là một cặp chim (một lớn, một nhỏ) đang đi tìm chỗ trú ẩn.
Nhiều chủ đề được
nêu ra cùng lúc trong cảnh chơi trên khay cát, trong đó có những chủ đề mang
tính đối lập nhau như: mối hiểm nguy (thú dữ rình rập) và sự an toàn (lặn sâu
trong nước), sự vô tư (thú hiền) và trí thông minh (con khỉ), không biết hiện
trạng (thú hiền) và biết rõ hiện trạng (con khỉ), sự thong thả của bầy thú ăn
cỏ đi kèm với sự tập trung chú ý của thú ăn thịt và chủ ý đi tìm nơi an toàn
của cặp chim... Các mặt mâu thuẫn cũng thể hiện trong giải pháp: con khỉ không
định báo cho thú hiền biết rằng chúng đang nguy hiểm, và giả sử những thú ấy
chạy thoát khỏi sự săn đuổi của sư tử thì đến lượt các sư tử con sẽ bị đói...
Các cô tâm lý của
nhóm Trăng Non luôn giữ thái độ trân trọng và cùng đồng hành với trẻ, cùng trao
đổi với trẻ về các chủ đề được nêu lên trong cảnh chơi. Sự nhận biết các chi
tiết, nội dung trong từng phần của cảnh diễn là rất quan trọng để trẻ có thể
thống hợp dần dần các chủ đề mà trẻ đã ngoại hiện ra. Sau đó, chính trẻ đã đưa
ra một giải pháp: Con khỉ đã quyết định thông báo cho những thú hiền biết chúng
đang nguy hiểm.
Những nội dung
mang tính ẩn dụ này tạo điều kiện cho trẻ thể hiện các chủ đề mà trẻ quan tâm
theo một cách thức khá an toàn mà trẻ khó có thể mô tả thành lời để kể trực
tiếp những gì đang xảy ra trong thực tế cuộc sống. Ở tuổi 16, bé gái ấy bắt đầu
ý thức được thực tế cuộc sống của mình, nhân thân của mình, nhận ra những mối
bận tâm và cả những lo âu của mình. Nhưng đồng thời, trẻ cũng có thể bắt đầu có
được sự tinh ý, thông thái (ẩn dụ con khỉ) và có thể thông qua diễn cảnh và đối
thoại mà trẻ dần dần có được những quyết định của riêng mình (con khỉ quyết
định thông báo nguy hiểm). Chủ đề lo âu có lẽ được nhắc đến nhiều nhất trong
một cảnh chơi như thế. Và khi trẻ cùng làm việc với các cô tâm lý, trẻ cũng cảm
nhận được sự giới hạn của các khả năng cũng như tính bất toàn của các giải
pháp: Nếu các thú hiền thoát nguy thì các thú con trong bầy sư tử cũng sẽ bị
đói – Có lẽ đó cũng là quy luật chung trong cuộc sống!
Việc trao đổi với
trẻ chỉ tập trung trong các chủ đề của cảnh chơi. Phương pháp sử dụng khay cát
(cũng giống như tranh vẽ hoặc chơi trị liệu) không nhấn mạnh đến việc diễn giải
ý nghĩa hoặc liên hệ những gì ngụ ý trong khay cát với những sự việc đang diễn
ra trong thực tế đời sống của trẻ, nhằm tránh khơi dậy những đau khổ đã có nơi
trẻ. Chính thông qua cách làm việc trên những hình ảnh có tính ẩn dụ mà nhà trị
liệu có thể trao đổi với trẻ về những điều trẻ thực sự quan tâm mà trẻ vẫn cảm
thấy an toàn để thể hiện và được hiểu.
Trong khi làm
việc với trẻ với công cụ khay cát, điều quan trọng là nhà tâm lý phải nhận ra
các chủ đề được nêu ra trong cảnh chơi. Trong cảnh chơi của bé gái 16 tuổi trên
đây, trẻ đã bộc lộ chủ đề về nỗi lo âu với cuộc đời, các mối nguy đang rình
rập, sự tìm kiếm nơi chốn an toàn, sự sống và cái chết, khả năng tồn tại và qua
đó trẻ cũng bộc lộ những mâu thuẫn, xung đột trong suy nghĩ và cảm nhận của
trẻ. Cũng trong khi đối thoại với trẻ về các chủ đề như vậy, nhà tâm lý cũng
giúp trẻ nhận ra các giá trị nào đang được xem xét, những giải pháp nào là có
tính khả thi và những quyết định sẽ được thực hiện như thế nào. Nguyên tắc
chung cho các đối thoại như thế vẫn là tính chất “không hướng dẫn” và chủ đề
vẫn nằm trong khuôn khổ cảnh chơi với những hình ảnh ẩn dụ do trẻ tạo dựng.
KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ
những giới hạn của điều kiện làm việc và hoàn cảnh nghiên cứu, chúng tôi chỉ có
thể nêu ra ở đây một số những kết luận sơ bộ mà bước đầu chúng tôi có thể rút
ra được từ những kết quả quan sát vẫn còn nhiều hạn chế của chúng tôi.
- Tiếp
cận làm việc với trẻ em sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội là một việc
làm khó khăn, phức tạp và đòi hỏi sự kiên nhẫn, tinh tế của người làm hỗ
trợ tâm lý. Bức tranh lâm sàng của từng trường hợp luôn luôn bị “pha lẫn
màu sắc” bởi lịch sử thực tế mà trẻ trải qua, cùng với những gì vẫn tiếp
tục được “vẽ lên” sau khi trẻ vào các cơ sở bảo trợ ấy. Những gì mà các cơ
sở này làm cho trẻ không thể hoàn toàn giống với chức năng của một gia
đình tự nhiên, do vậy khó có thể tách bạch các vấn đề nào là do từ hoàn
cảnh của riêng trẻ và vấn đề nào là chuyện phát sinh từ trong môi trường
sống của các cơ sở nuôi trẻ. Điều khó khăn này luôn phải được xem xét đến
khi phân tích các sản phẩm chơi và sáng tạo nghệ thuật của trẻ.
- Các
cán bộ tâm lý phải làm việc trong các môi trường phối hợp liên ngành, liên
bộ phận, do vậy cần mất rất nhiều thời gian để tiếp cận và làm việc với
một trường hợp trẻ em sống trong các cơ sở ấy. Cứ mỗi giờ dành cho làm
việc riêng với đứa trẻ thì cán bộ tâm lý Trăng Non cần đến khoảng 5-6 giờ
làm việc với các nhân viên khác trong cơ sở, và có trường hợp phải làm
việc với thân nhân của trẻ nếu có thể còn liên hệ được với họ.
- Liệu
pháp chơi hoặc sáng tạo nghệ thuật chỉ là một phần trong một chuỗi các
biện pháp can thiệp, hỗ trợ tâm lý cho trẻ. Chúng không thể thay thế cho
những việc làm khác của các cơ sở trong việc cung cấp nơi ăn, chốn ở an
toàn cho trẻ, cung cấp các điều kiện giáo dục, học tập cho trẻ và cũng
không thể thay thế cho các công tác hỗ trợ khác bao gồm cả việc giúp trẻ
duy trì các mối liên hệ với gia đình gốc của mình và đôi khi các nhân viên
làm việc trong những cơ sở bảo trợ ấy cũng cần được hỗ trợ và nâng đỡ tinh
thần.
- Tuy
vậy, qua quá trình làm việc cụ thể trên các trường hợp, chúng tôi vẫn thu
nhận được kết quả rất đáng khích lệ từ việc việc sử dụng chơi và sáng tạo
nghệ thuật để hỗ trợ tâm lý cho trẻ. Trẻ có thể trở nên sẵn lòng đối
thoại, tham gia toàn tâm toàn ý với việc chơi và sáng tạo nghệ thuật, và
thay đổi từng bước nhỏ về thái độ, hành vi khi sống và tham gia các sinh hoạt
trong cơ sở nuôi trẻ.
- Việc
phân tích các tranh vẽ và cảnh chơi của trẻ đã góp phần cho các cán bộ tâm
lý cùng với nhân viên của cơ sở bảo trợ hiểu biết hơn về tâm lý của trẻ,
và nhiều trẻ tham gia hoạt động chơi và sáng tạo nghệ thuật cũng đã biểu
lộ sự cải thiện về mặt tâm trạng, cảm xúc cũng như các hành vi ứng xử và những
mối quan hệ của trẻ với người xung quanh.
- Một
điều vô cùng quan trọng mà chúng tôi đạt được khi triển khai công việc
nghiên cứu này đó là đã từng bước xây dựng được một mô hình kết hợp làm
việc giữa một nhóm chuyên viên làm việc về tâm lý trị liệu trẻ em (Trăng
Non) với những cơ sở bảo trợ dành cho trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi (các mái
ấm, làng mồ côi...). Đây cũng là một mô hình đưa các dịch vụ hỗ trợ tâm lý
chuyên nghiệp đến với các đối tượng trẻ em thiệt thòi, nhận chịu hoàn cảnh
sống có nguy cơ cao và dễ bị tổn thương.
PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG SẮP TỚI
Chúng tôi đang
chuẩn bị xây dựng và hoàn thiện tiếp tục mô hình hợp tác giữa Trăng Non và các
cơ sở bảo trợ xã hội dành cho trẻ em thiệt thòi, để nâng cao dần chất lượng làm
việc của mình và làm sao để mô hình này có tính khả thi hơn trong thời gian lâu
dài.
Chúng tôi cũng
tiếp tục rút kinh nghiệm từ những kết quả ban đầu khi ứng dụng các liệu pháp
chơi và sáng tạo nghệ thuật trong hỗ trợ tâm lý trẻ dễ tổn thương nói riêng và
những trẻ em có vấn đề khó khăn tâm lý nói chung. Những nghiên cứu về sau, nếu
có đủ điều kiện, sẽ được thực hiện sâu hơn, liên tục hơn, thời gian lâu hơn để
góp phần phát triển chung cho ngành tâm lý trị liệu trẻ em còn non trẻ tại Việt
Nam.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
- Những
nghiên cứu tượng tự trong tương lai rất cần được hỗ trợ về kinh phí. Tính
cho đến nay, hầu hết những công việc mà Trăng Non thực hiện trên đây đều
do bản thân chi hội và các cá nhân tham gia đóng góp, cả về công sức lẫn
vật liệu và tài chính.
- Những
mô hình phối hợp làm việc giữa một đơn vị làm chuyên môn tâm lý như Trăng
Non và các cơ sở bảo trợ xã hội cần được nghiêm túc đánh giá, chuẩn hóa và
chính thức hóa để có thể nghiệm thu và nhân rộng.
- Các
loại liệu pháp chơi và sáng tạo nghệ thuật cần được học tập, nghiên cứu và
ứng dụng trong thực tế làm việc hỗ trợ tâm lý cho trẻ em. Chi hội Trăng
Non sẵn lòng cung cấp thông tin và chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực làm
việc này.
LỜI KẾT
Chúng tôi chân thành
cảm ơn Hội Khoa học tâm lý – Giáo dục Tp. Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện cho
chi hội Trăng Non hoạt động chuyên môn trong thời gian qua.
Chúng tôi chân
thành cảm ơn các thành viên và cộng tác viên của Trăng Non đã góp công sức vào
quá trình làm việc và nghiên cứu về các liệu pháp tâm lý dành cho trẻ em.
Chân thành cảm ơn
các cơ sở mái ấm, nhà mồ côi đã giúp chúng tôi thực hiện nghiên cứu. Thiếu sự
hợp tác và giúp sức ấy, chúng tôi không thể hoàn thành những công việc nghiên
cứu này.
Tri ân những trẻ
em thiệt thòi, những trẻ em bất hạnh sống trong các cơ sở mái ấm và làng mồ côi.
Những cuộc đời không may nhưng đã để lại cho người khác những bài học về nghị
lực và sức phấn đấu.
Cảm ơn quý đồng
nghiệp cùng bạn hữu, những người đã hỗ trợ tinh thần cho Trăng Non làm việc
suốt thời gian qua.
۩
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.