Thứ Năm, 7 tháng 12, 2017

TÂM LÝ TRỊ LIỆU LÀ GÌ? - ĐI TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA

BS NGUYỄN MINH TIẾN Tổng hợp


Tâm lý trị liệu (psychotherapy) là một hệ thống các kỹ thuật được thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân – những người được gọi là “thân chủ”. Những vấn đề này thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình. Tâm lý trị liệu nhắm đến giải quyết các vấn đề này, thông qua một số những phương pháp và kỹ thuật khác nhau; và chúng được thực hiện bởi những người gọi là “nhà trị liệu” (những chuyên viên được đào tạo về tâm lý trị liệu).

Các cuộc trị liệu thường bao gồm một (hoặc vài) nhà trị liệu và một (hoặc nhiều) thân chủ. Họ gặp nhau để bàn bạc, trao đổi, phát hiện ra những vấn đề gì mà thân chủ đang gặp phải và tìm kiếm cách thức nào để giải quyết chúng. Do những đề tài được bàn bạc trong các buổi trị liệu thường có tính chất nhạy cảm, nhà trị liệu phải có trách nhiệm (thường được pháp luật quy định) tôn trọng tính riêng tư và sự bảo mật cho thân chủ của mình.

Tâm lý trị liệu là phương pháp chữa trị các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương pháp sử dụng lời nói hoặc các công cụ giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những người làm tâm lý trị liệu phải được đào tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà tâm lý, bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm, nhân viên xã hội, điều dưỡng viên tâm thần hoặc các chuyên viên khác đang làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Trong quyển Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt xuất bản năm 2005 (Chủ biên: GS Ngô Gia Hy – NXB Y Học Tp.HCM) có định nghĩa về tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) như sau: “Điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc bằng các phương pháp tâm lý. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh” (Sách đã dẫn – tr.784).

Tâm lý trị liệu thực sự không phải là việc gì đó quá mới mẻ, xa lạ hoặc vượt quá tầm hiểu biết của tất cả chúng ta. Theo Alexander (Individual Psychotherapy; 1964):

"Bất kỳ ai đang cố gắng cảm thông với một người bạn đang đau khổ hoặc cố trấn an một đứa trẻ đang hoảng sợ, thì cũng có thể xem người ấy đang thực hành tâm lý trị liệu. Người đó đang cố gắng vận dụng các phương thức tương tác về mặt tâm lý để bảo tồn trạng thái thăng bằng về mặt cảm xúc ở một người khác. Những cách thức thông thường này chủ yếu được dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác hơn là sự hiểu biết có tính khoa học. Khi bạn đang nói chuyện với ai đó đang có tâm trạng phiền muộn, bạn cũng có thể tự nhiên hiểu được tác dụng tốt của việc giúp cho người ấy giải tỏa cảm xúc. Với một người đang trong trạng thái hoảng sợ, quẫn trí, bạn cũng có thể (bằng sự hiểu biết có tính trực giác) mang đến cho người ấy sự hỗ trợ về mặt cảm xúc bằng những lời khuyên và một thái độ vững chãi để người ấy có thể tin tưởng nương tựa vào bạn. Bạn vốn cũng có thể đã biết rằng khi một người đang bị chìm ngập trong một tình huống có tính nguy hiểm, đáng sợ thì người ấy không thể sử dụng được lý trí của mình một cách hiệu quả, và bạn cần giúp anh ta ổn định bằng cách nâng đỡ về mặt tâm lý. Trong lúc nói chuyện với người ấy về hoàn cảnh khách quan mà anh ta đang đương đầu, bạn có thể cho anh ta ‘mượn’ công cụ lý trí của chính bạn để sử dụng. Khi làm tất cả những việc này, chúng ta đã thực hành một sự phối hợp giữa hai công việc có tính chất chữa trị, một là nâng đỡ (supportive), hai là thấu hiểu (insight)."

Và Alexander đã định nghĩa tâm lý trị liệu “... không gì khác hơn ngoài việc áp dụng một cách có hệ thống, một cách có ý thức những phương pháp mà chúng ta áp dụng để ảnh hưởng lên những người sống xung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sự khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: nó không đơn thuần dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác mà thay vào đó là phải có sự thiết lập tốt các nguyên lý chung về tâm lý động học (psychodynamics)”. (Sđd. – tr.110).

Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người thân quen thường gặp trong đời sống, “sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đào tạo chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư” (Goffman; 1962).

Tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó “tự hiện thực hóa bản thân mình”. Có thể tóm tắt một số mục tiêu chính của tâm lý trị liệu như sau:

  • Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ
  • Tìm kiếm giải pháp cho các xung đột
  •  Gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ
  •  Giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn
  •  Giúp thân chủ củng cố một cái Tôi vững mạnh, toàn vẹn và an toàn

James C. Coleman (Abnormal Psychology and Modern Life; 1950) nêu ra một số bước cơ bản trong tiến trình làm tâm lý trị liệu như sau:

  • Tạo một bầu không khí quan hệ có tính trị liệu
  • Giải tỏa cảm xúc của thân chủ
  • Tạo sự thấu hiểu nơi thân chủ
  • Giúp thân chủ định hình lại cảm xúc
  • Kết thúc trị liệu

Từ thời cổ đại, Hippocrates (ông tổ của y học phương Tây) đã từng kể ra ba loại công cụ chủ yếu mà một người thầy thuốc có thể sử dụng để chữa bệnh, đó là: cây cỏ, con dao và lời nói. Từ cây cỏ có thể chiết xuất ra các dược liệu, từ con dao có thể cắt bỏ đi những phần cơ thể bị bệnh mà không thể giữ lại được, và từ đó đã dần dần hình thành nên các chuyên ngành nội khoa và ngoại khoa trong y khoa hiện đại. Song chỉ khi có sự hình thành và phát triển của ngành tâm lý học hiện đại và ngành tâm thần học hiện đại, giá trị của việc sử dụng lời nói trong chữa bệnh mới được phát huy thành một phương pháp trị liệu thực sự khoa học. Phương thức trị liệu ấy được một số nhà tiên phong trong lĩnh vực này (như Sigmund Freud chẳng hạn) gọi là “talking cure” nghĩa là sự chữa trị bệnh bằng lời nói – mà về sau trở thành chuyên ngành tâm lý trị liệu với rất nhiều trường phái và khuynh hướng khác nhau.

Điều gì đã giúp tạo nên hiệu quả của phép chữa trị ấy? Nhiều yếu tố giúp tạo nên hiệu quả của tâm lý trị liệu đã được nghiên cứu và thừa nhận như bản chất mối quan hệ trị liệu (Goldstein; 1962), sự hữu dụng của lời nói (Bernstein; 1965), lòng tin của người bệnh (hoặc thân chủ) đối với nhà trị liệu (Frank; 1961). Tuy vậy, tác động thực sự của tâm lý trị liệu vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi mãi cho đến hiện nay. Liệu rằng các cách thức chữa trị bằng lời nói có thực sự chữa trị được các chứng rối loạn tâm trí?

Trong thực tế, việc tranh luận về hiệu quả của tâm lý trị liệu phần lớn xảy ra trong giới chuyên môn, ngay cả giữa những người thực hành tâm lý trị liệu thuộc các trường phái và xu hướng khác nhau. Nhưng có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu chúng ta xem xét tác động của tâm lý trị liệu từ góc nhìn và vị thế của người bệnh hoặc thân chủ. Thân chủ không “nhìn thấy” những học thuyết và lý luận của nhà trị liệu, mà “nhìn vào” hành vi và thái độ ứng xử của nhà trị liệu. Và vì thế việc ai là nhà trị liệu trở thành điều có khi còn quan trọng hơn cả việc nhà trị liệu áp dụng học thuyết nào, phương pháp nào... Thực vậy, nhà trị liệu là người ở vào vị thế có ảnh hưởng lên trên thân chủ, mà nếu không có sự ảnh hưởng này, việc trị liệu sẽ không còn giá trị. Do vậy tâm lý trị liệu có thể được xem là “nghệ thuật tạo sự khích lệ, và kế đó là sử dụng tầm ảnh hưởng của nhà trị liệu lên thân chủ của mình một cách thuần thục” (Micheal Franz Basch).

Mặt khác, người ta khó có thể xác định được hiệu quả của tâm lý trị liệu, mà thay vào đó chỉ có thể xem xét được hiệu năng của nó, tức là việc tâm lý trị liệu tạo khả năng để có thể đạt đến một kết quả mong muốn. Hay nói theo cách của Gregory Bateson khi ông định nghĩa về "thông tin"; đó là “cung cấp một sự khác biệt để tạo nên một sự khác biệt” ("a difference that makes a difference"). Nhà tâm lý trị liệu không giúp thay đổi những sự kiện trong thực tế khách quan, mà nhắm đến việc thay đổi những gì xảy ra trong thực tại chủ quan của người bệnh hoặc thân chủ. Nói một cách hình tượng thì “nhà trị liệu mang thân chủ đến một điểm mà ở đó họ không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa” (Martin Seligman; 1975).

Có một sự mặc định trong việc hiểu rằng: nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thì làm việc với những người bệnh, những người bị rối loạn chức năng của bộ máy tâm trí, còn các chuyên viên tư vấn (counselor) thì làm công việc giúp đỡ những người đang gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, cả hai công việc tư vấn và trị liệu tâm lý đều cùng chia sẻ chung những học thuyết, lý luận, kỹ năng và phương pháp. Theo Jessie Bernard (1969), “tư vấn tâm lý giúp con người của thân chủ trở lại hòa hợp với số phận của họ, điều chỉnh bản thân họ khi sống đối mặt với những thất bại và đau khổ. Nhưng nếu những thân chủ ấy có những ứng xử không tuân theo các chuẩn mực hoặc có những rối loạn tâm trí nghiêm trọng, thì việc giúp đỡ những thân chủ ấy sẽ thuộc trách nhiệm của nhà tâm lý trị liệu”.

Theo James Bugental, Ph.D.(www.psychotherapy.net): 

"Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn suy nghĩ. Đó không hẳn là việc chữa lành một căn bệnh. Đó không phải là sự hướng dẫn của một nhà thông thái. Đó không phải là sự chia sẻ giữa hai người bạn thân. Đó cũng không phải là một quá trình học hỏi những kiến thức.

"Tâm lý trị liệu không liên quan đến những điều bạn suy nghĩ. Đó là sự làm việc trên cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó làm cho bạn chú ý đến cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó phân biệt rõ giữa những điều bạn đang suy nghĩ đến và cách thức mà bạn thực hiện sự suy nghĩ ấy. Tâm lý trị liệu ít quan tâm đến việc tìm kiếm những nguyên nhân để giải thích những gì bạn đang làm, nó quan tâm đến việc khám phá ý nghĩa từ những việc mà bạn đang làm.

"Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn nghĩ. Nó liên quan đến cách thức mà bạn sống với những tình cảm của mình. Nó liên quan đến những quan điểm bạn áp dụng vào trong những mối quan hệ của bạn với những người xung quanh. Nó liên quan đến những điều bạn muốn đạt đến trong đời và cách thức mà bạn cố gắng để đạt đến những mục đích ấy. Nó liên quan đến các nguồn lực giúp đỡ để bạn có thể tìm thấy những tiềm năng thay đổi trong con người bạn.

"Tâm lý trị liệu không liên quan đến điều bạn suy nghĩ là gì, nó liên quan đến cách thức mà bạn suy nghĩ..."


Một số thắc mắc thường gặp của bạn đọc khi tìm hiểu về công việc của người làm tâm lý trị liệu:

Tâm lý trị liệu là gì?

Tâm lý trị liệu là những can thiệp nhằm giúp đỡ những con người có vấn đề khó khăn về mặt tinh thần trong đời sống. Các can thiệp này được thực hiện bởi những người có kiến thức và kỹ năng chuyên biệt gọi là nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist). Mục đích của tâm lý trị liệu là nhằm hướng đến việc giúp cho thân chủ hoặc những người bệnh vơi nhẹ những trải nghiệm đau khổ, khó khăn về tinh thần và đồng thời càng lúc càng gia tăng những cảm nhận tích cực về cuộc sống và về bản thân.

Những can thiệp trị liệu bao gồm rất nhiều hình thức đi từ việc thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp, có tính hỗ trợ giữa nhà trị liệu và thân chủ, các buổi làm việc dựa trên đối thoại, giao tiếp giữa hai bên, tiến đến giúp thân chủ cải thiện chất lượng đời sống tinh thần, tăng trưởng bản thân, thay đổi hành vi, đồng thời giúp bảo tồn và phát triển các mối quan hệ trong đời sống của thân chủ.

Khác với người lớn, trẻ em là những con người đang phát triển. Nhiều chức năng cả về thể chất lẫn tâm lý vẫn đang trong tiến trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cho đến khi trẻ đến tuổi trưởng thành. Do vậy, những can thiệp hỗ trợ tâm lý cho trẻ em thường phải hướng đến việc giúp trẻ vừa đương đầu với các vấn đề khó khăn hiện tại, vừa giúp trẻ tiếp tục hoàn thiện các chức năng thể chất và tinh thần để thích nghi tốt hơn với đời sống. Hỗ trợ tâm lý cho trẻ em thường phải thực hiện song song với hỗ trợ tâm lý cho gia đình của trẻ; đôi khi phải kết hợp với việc đánh giá và điều trị các chứng bệnh về thể chất có liên quan hoặc đôi khi phải kết hợp với các phương pháp giáo dục chuyên biệt, nhất là ở những trẻ có tình trạng rối loạn phát triển.

Bất kỳ ai trong đời sống cũng có thể gặp phải những hoàn cảnh như vậy, đôi khi tạm thời, thoáng qua, đôi khi có thể tự mình nỗ lực khắc phục... Cũng có khi nhờ sự hỗ trợ tinh thần từ bạn bè, người thân mà những hoàn cảnh khó khăn kia dần dần được giảm nhẹ và người trong cuộc có thể vượt qua được. Tuy nhiên, một khi các nỗ lực cá nhân bị thất bại hoặc khi các nguồn lực hỗ trợ từ người thân, bạn bè không được hiệu quả, lúc ấy người gặp nan đề rất cần đến sự hỗ trợ chuyên nghiệp từ những nhà tâm lý trị liệu. Trong đời sống hiện đại ngày nay, những áp lực của đời sống ngày một gia tăng cùng sự thay đổi của cấu trúc gia đình sẽ kéo theo việc gia tăng khoảng cách giữa các thế hệ và làm giảm đi tính hữu hiệu của các nguồn lực hỗ trợ theo kiểu truyền thống (sự giúp đỡ từ người thân, gia đình, bạn bè...) do vậy sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu hỗ trợ tâm lý từ những nhà tham vấn và trị liệu tâm lý chuyên nghiệp.

Ai là thân chủ?

Một người trưởng thành có thể tìm đến tâm lý trị liệu khi người đó gặp phải các vấn đề khó khăn (nan đề) trong đời sống tinh thần. Trong các trường hợp ít nghiêm trọng, đó có thể là các nan đề hay xảy ra như: khó khăn khi quyết định một việc quan trọng, mâu thuẫn và xung đột trong các mối quan hệ, những trải nghiệm cảm xúc tiêu cực, đương đầu với những sự kiện quá mức chịu đựng, những trạng thái tinh thần quá căng thẳng, quá đau khổ sau những sang chấn, mất mát, hoặc đôi khi đó là những cảm giác bất an, lạc lõng, trống vắng, chán nản, mất phương hướng...

Trong các trường hợp nghiêm trọng hơn, người gặp khó khăn về tinh thần không chỉ đương đầu với các nan đề trong đời sống mà còn có thể bị rối loạn các chức năng của hoạt động tâm trí. Những rối loạn chức năng tâm trí ấy, nếu gọi tên theo cách định bệnh của ngành y khoa tâm thần, có thể kể ra một số trạng thái phổ biến sau đây: rối loạn lo âu, trầm cảm, rối loạn ám ảnh – cưỡng chế, ám ảnh sợ, lạm dụng chất gây nghiện (rượu, ma túy), các rối loạn nhân cách, và nặng hơn là các trường hợp loạn thần như loạn thần cấp hoặc tâm thần phân liệt chẳng hạn. Cũng có khi các rối loạn này biểu hiện thông qua những hành vi quá đáng, lệch lạc, gây nguy hại cho bản thân hoặc cho người khác như: bạo hành, lạm dụng tình dục, xâm hại trẻ em, tự sát, tự hủy hoại, hành vi bột phát trong giai đoạn khủng hoảng ở tuổi vị thành niên, các rối loạn ăn uống, các lệch lạc về khuynh hướng và sở thích tình dục, hành vi có tính nghiện ngập không phụ thuộc hóa chất ví dụ nghiện game, nghiện internet, nghiện bài bạc...

Trẻ em còn nhỏ có thể gặp nhiều tình trạng khó khăn khác nhau. Những trẻ mắc các chứng rối loạn phát triển có thể bị tình trạng chậm trễ trong phát triển những chức năng hoạt động tâm trí như trí tuệ, nhận thức, vận động, giao tiếp và quan hệ xã hội, khiến cho trẻ gặp nhiều trở ngại trong sinh hoạt, học tập và thích nghi với đời sống. Ở những trẻ có quá trình phát triển tốt, các trở ngại và khó khăn cũng có thể phát sinh khi trẻ sống trong môi trường gia đình có nhiều nguy cơ như quan hệ xung đột, bạo hành, sang chấn hoặc sự gắn bó về cảm xúc với người thân không đầy đủ hoặc không phù hợp. Tất cả các trường hợp trên đều cần đến những can thiệp hỗ trợ chuyên biệt về tâm lý.

Ai là nhà trị liệu?

Công việc của một nhà tâm lý trị liệu không giống như một bác sĩ y khoa, cũng không giống như một nhà giáo dục hoặc một nhân viên công tác xã hội, dù một số nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân ban đầu từ các ngành nghề trên.

Nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thường bị nhầm lẫn với một kiểu chuyên viên khác là bác sĩ tâm thần (psychiatrist). Cả trong cách gọi tiếng Việt lẫn tiếng nước ngoài (Anh hay Pháp) đều có thể khiến người ngoài ngành bị hiểu nhầm. Hai kiểu chuyên viên này đều đòi hỏi phải trải qua những quá trình đào tạo chuyên sâu của ngành nghề mà mình làm việc.

Một bác sĩ tâm thần trước tiên phải là một bác sĩ y khoa và được đào tạo chuyên sâu thêm về lĩnh vực sức khỏe tâm thần. Đa số bác sĩ tâm thần làm việc trong các cơ sở y tế, làm công việc khám và chữa trị cho những bệnh nhân mắc các chứng rối loạn tâm trí; đa phần sử dụng cách chữa trị y - sinh học nghĩa là dùng thuốc. Một số bác sĩ tâm thần được đào tạo chuyên sâu về tâm lý trị liệu có thể sử dụng các liệu pháp tâm lý để chữa trị cho những người có rối loạn chức năng tâm trí, khi đó họ đã đứng vào vị thế làm việc như một nhà tâm lý trị liệu. Có thể nói, tâm lý trị liệu (sử dụng các liệu pháp tâm lý) hoàn toàn khác về lý luận lẫn phương thức khi so sánh với việc can thiệp trị liệu theo kiểu y - sinh học, mặc dù cả hai cách thức can thiệp có khi nhằm vào việc giúp đỡ cùng những đối tượng giống nhau.

Nguồn "cung ứng nhân sự" quan trọng cho ngành tâm lý trị liệu chính là những nhà tâm lý lâm sàng (clinical psychologist). Tâm lý lâm sàng là lĩnh vực đào tạo chuyên sâu của tâm lý học; tuy dùng chữ "lâm sàng", nhưng những chuyên viên này là nhà tâm lý chứ không phải bác sĩ y khoa. Cách gọi "bác sĩ tâm lý" do vậy là cách gọi không đúng và dễ gây hiểu nhầm. Nhà tâm lý lâm sàng có thể làm việc trong những cơ sở chăm sóc hỗ trợ tâm lý hoặc làm việc chung với các bác sĩ tâm thần trong những trung tâm chăm sóc sức khỏe tâm thần theo kiểu phối hợp làm việc liên ngành để chữa trị các rối loạn tâm trí nghiêm trọng.

Nhà tâm lý trị liệu cũng có thể có nguồn gốc xuất thân từ những người thuộc hai lĩnh vực chuyên môn khác đó là: chuyên viên công tác xã hội lâm sàng (clinical social worker) và các chuyên viên giáo dục đặc biệt (special educator).

Cho dù xuất thân từ lĩnh vực chuyên môn nào, một nhà tâm lý trị liệu đều bắt buộc phải trải qua quá trình đào tạo và làm việc nhiều năm để có thể tác nghiệp hiệu quả trong lĩnh vực chuyên sâu này. Ở các quốc gia có ngành tâm lý trị liệu phát triển, việc đào tạo, chứng nhận hành nghề và quản lý hành nghề được thực hiện rất nghiêm túc và do các hội ngành nghề về tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu đảm nhận.

Trị liệu được tiến hành như thế nào?

Tâm lý trị liệu là một tiến trình làm việc giữa một (hoặc vài) nhà trị liệu với một (hoặc nhiều) thân chủ. Tiến trinh làm việc ấy bao gồm trong nhiều buổi gặp gỡ giữa hai bên, có những khuôn khổ quy ước về thời gian và nơi chốn, khảo sát các nhu cầu và định ra các mục tiêu hướng đến những thay đổi và những giải pháp cho các vấn đề khó khăn về tâm lý mà thân chủ đang gặp phải.

Tâm lý trị liệu nhắm đến việc xây dựng một mối quan hệ có tính hỗ trợ giữa nhà trị liệu và thân chủ, thông qua đó thực hiện các cuộc đối thoại giúp thân chủ đi sâu tìm hiểu, khám phá những khía cạnh trong đời sống tinh thần của mình cũng như trong các mối quan hệ của thân chủ với những người khác, tìm hiểu nguồn gốc các khó khăn trong đời sống hiện tại, từ đó có cách thức sống thích nghi hơn, hài hòa hơn giữa bản thân mình và cuộc sống xung quanh. Có thể xem đó là những tiến trình thay đổi bản thân, tiến trình học tập lại, tiến trình trải nghiệm lại, hoặc tiến trình tái kết nối và làm mới lại những mối quan hệ trong đời sống.

Ở thân chủ người lớn, các trao đổi giữa nhà trị liệu và thân chủ sẽ sử dụng phần lớn các kỹ năng giao tiếp bằng lời nói. Đối với trẻ em, nhà trị liệu có thể áp dụng các công cụ giao tiếp trung gian thay cho lời nói chẳng hạn như: chơi, vẽ tranh và các hoạt động khác.

Mỗi buổi gặp gỡ được gọi là một "phiên trị liệu" (session), thường diễn ra tại cơ sở làm việc của nhà trị liệu trong những khoảng thời gian được quy định trước. Thời gian cho mỗi phiên làm việc thay đổi tùy trường hợp.

- Phiên trị liệu cá nhân:
  Trẻ nhỏ: 45-60 phút
  Người lớn: 60-90 phút
- Phiên trị liệu gia đình: 90-120 phút
- Phiên trị liệu nhóm: 90-120 phút hoặc nhiều hơn

Một quá trình trị liệu (một liệu trình) có thể diễn ra ngắn ngày hoặc dài hạn là tùy thuộc vào bản chất của vấn đề, nhu cầu của thân chủ và khả năng đáp ứng của cơ sở trị liệu. Có thể thực hiện những liệu trình ngắn hạn (một đến vài phiên trị liệu) cho đến những liệu trình dài hạn (vài tháng đến vài năm; bao gồm rất nhiều phiên trị liệu).

Khoảng cách giữa hai phiên trị liệu có thể thay đổi tùy theo tính khẩn cấp của vấn đề nhiều hay ít; có thể từ mỗi tuần 2 lần; 1-2 tuần một lần hoặc lâu hơn.

Các công việc như đánh giá, phân tích nhu cầu và hoạch định mục tiêu thường xuyên được thực hiện trong suốt quá trình làm việc giữa nhà trị liệu và thân chủ để bảo đảm đáp ứng các nhu cầu và lợi ích của thân chủ. Tính minh bạch của các can thiệp từ nhà trị liệu cùng với mức độ sẵn lòng tham gia và thực hiện các thay đổi từ phía thân chủ sẽ là những nhân tố chính yếu quyết định sự thành công của tâm lý trị liệu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.