Nguyên tác: Kathryn Patricelli, Adoption,
MA - MentalHelp.Net
Lược dịch: NGUYỄN MINH TIẾN; theo
phiên bản cập nhật ngày 22/1/2007
(Bài đã đăng trên website Tâm lý
Trị liệu năm 2010)
Phiên bản mới tiếng Anh tại đây:
http://www.mentalhelp.net/poc/view_doc.php?type=doc&id=11455&cn=11
Không giống như những trường hợp
trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được bố trí nuôi dưỡng (foster care) tạm thời hoặc
dài hạn ở những cơ sở nuôi dưỡng trẻ, việc nhận con nuôi là một tình trạng hoàn
toàn khác. Nhận con nuôi là một tình trạng được quy định bởi pháp luật và đòi hỏi
có những cam kết đặc biệt. Nhận con nuôi là việc bố trí một đứa trẻ, theo những
nguyên tắc luật định, vào một môi trường sống thường xuyên với bố mẹ nuôi (một
người hoặc một cặp vợ chồng) không phải bố mẹ ruột của trẻ. Trong quá trình
chuyển giao này, quyền nuôi con của bố mẹ ruột thường phải được chấm dứt hẳn.
Cha mẹ nuôi khi đó phải đảm nhận đầy đủ các trách nhiệm đối với đứa trẻ trước
pháp luật. Và đứa trẻ sẽ hưởng đủ những quyền lợi như một người con được sinh
ra bởi cha mẹ nuôi.
Việc nhận con nuôi có nghĩa là mối
liên hệ giữa cha mẹ nuôi và trẻ có tính quy định bởi pháp luật và điều này được
ràng buộc cho cả hai phía chứ không đơn thuần chỉ để tạo thuận tiện. Sẽ là phạm
tội nếu người nhận nuôi trẻ sau đó ruồng bỏ trẻ. Luật cũng quy định việc cha mẹ
nuôi phải thực hiện những quyết định một cách nghiêm túc về những việc có ảnh
hưởng đến số phận của trẻ, kể cả việc chọn trường, chọn tôn giáo cho trẻ đến
phương pháp giáo dục và kỷ luật đối với trẻ... Những người nhận nuôi trẻ tạm thời
hoặc ngẫu nhiên thì không có cùng những trách nhiệm luật định như vậy.
Nói chung, nhận con nuôi là một
việc có liên quan đến rất nhiều thủ tục giấy tờ, cần đến sự hỗ trợ của luật sư,
nhân viên xã hội và thẩm quyền quyết định của tòa. Nhận con nuôi là một tình trạng
sắp xếp đứa trẻ sống chung với cha mẹ nuôi một cách dài hạn giống như mối quan
hệ cha mẹ và con cái ruột thịt vậy. Đối với phần lớn gia đình nhận con nuôi,
đây thường là một việc dựa trên tình yêu thương và khát khao làm phong phú đời
sống gia đình của họ, vì thế đời sống của đứa trẻ sẽ trở thành một phần của gia
đình đó.
Có nhiều lý do khiến người ta nhận
con nuôi. Những bà mẹ cho đứa con ruột của mình để người khác nhận nuôi phần
đông thường là những bà mẹ đơn thân. Một số trường hợp, trẻ có đủ bố mẹ, nhưng
vẫn được cho làm con nuôi chủ yếu là do những khó khăn về tài chính không thể
nuôi đứa trẻ đó hoặc phải nuôi quá nhiều con. Một phụ nữ trẻ cũng có thể xem
xét việc cho con mình khi biết mình mang thai với một người không có quan hệ
tình cảm chắc chắn, hoặc bản thân người phụ nữ ấy không sẵn sàng đảm nhận trách
nhiệm làm mẹ đơn thân. Một số thấy mình còn quá trẻ, chưa sẵn lòng cho việc
nuôi con. Trong những trường hợp như thế, người mẹ có thể nhận thấy cách tốt nhất
là tìm cách cho con mình để người khác nhận nuôi.
Một số tình huống khác có thể xảy
ra là khi người mẹ ruột vì lý do gì đó đã bị chấm dứt quyền nuôi con bời pháp
luật, ví dụ: do bà mẹ có những hành vi thiếu trách nhiệm, hoặc ngược đãi đứa trẻ,
lạm dụng ma túy hoặc một số tình huống khác gây tổn hại cho đời sống đứa trẻ. Nếu
người mẹ không chứng minh khả năng cũng như sự sẵn lòng thay đổi những hành vi
hiện có (ví dụ: không bỏ ma túy hoặc vẫn tiếp tục hành hạ đứa trẻ), quyền nuôi
con có thể bị chấm dứt bởi pháp luật và đứa trẻ có thể được bố trí vào các cơ sở
nuôi dưỡng trẻ hoặc bố trí được nhận nuôi bởi một gia đình khác. Cách thức làm
việc này có thể khác nhau ở các quốc gia và các nền văn hóa khác nhau.
Về phần gia đình nhận con nuôi
thì cũng có nhiều lý do khác nhau để họ có quyết định này, và quá trình thực hiện
cũng có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau một khi nó đã bắt đầu. Trong mọi
trường hợp, có thể sẽ xuất hiện các chủ đề cần được nhận diện và giải quyết kể
từ lúc nhận đứa trẻ vào gia đình cho đến khi cả hệ thống gia đình trở nên hài
hòa. Tuy nhiên, với sự hướng dẫn, hỗ trợ, với nguyện vọng và nỗ lực, gia đình
cha mẹ nuôi và đứa trẻ có thể làm nên những bước tiến lớn và xây dựng được một
gia đình mà họ hằng mơ ước.
CÁC VẤN ĐỀ LÂU DÀI MÀ ĐỨA TRẺ CÓ
THỂ ĐỐI DIỆN
Một số vấn đề có thể nẩy sinh khi
trẻ bắt đầu nhận ra mình được cho làm con nuôi. Trẻ có thể trải qua những ưu sầu
khi mất đi mối quan hệ và sự gắn kết với cha mẹ ruột. Cảm nhận về sự mất mát
này có thể rất sâu đậm trong những trường hợp nhận con nuôi đi kèm với việc mất
hoặc có quá ít thông tin về cha mẹ ruột và gia đình gốc. Những cảm xúc đau khổ
này có thể được kích hoạt bất cứ lúc nào trong cuộc đời của trẻ, kể cả thời điểm
trẻ lần đầu tiên biết mình là con nuôi, vào thời gian đầy xáo trộn của tuổi vị
thành niên, khi một thành viên nào đó trong gia đình mất đi, hoặc khi đứa trẻ lớn
lên kết hôn và có con... Cũng có thể có những mối bận tâm đáng kể về cảm nhận rằng
mình đã từng bị “ruồng bỏ”, hoặc “có thể bị ruồng bỏ” và quá khứ “không tốt” của
mình, kèm theo là những tổn thương khi nhận thấy rằng “mẹ ruột đã từng chối bỏ
mình”, “đem mình cho người khác” hoặc “không muốn có mình nữa”... Cảm xúc đau
buồn kia có thể trở nên phức tạp thêm, nếu sau đó trẻ biết được người mẹ ruột của
mình và những đứa con khác mà bà chọn lựa giữ lại để nuôi dưỡng.
Trẻ con nuôi cũng có thể bị mất
đi những thông tin về lịch sử gia đình, bao gồm những thông tin về mặt y học,
di truyền và sức khỏe, mặc dù những cơ quan nuôi dưỡng trẻ hoặc các tổ chức cho
nhận con nuôi cũng cố gắng có những ghi nhận lại về lai lịch của trẻ nhưng thường
cũng không đầy đủ. Thậm chí, sau này khi trẻ đến bác sĩ để khám bệnh, chỉ cần
được hỏi về tiền sử các bệnh tật của gia đình thì những cảm xúc đau buồn, khó
chịu cũng có thể xuất hiện trở lại, gợi nhớ về thân phận “con nuôi” của trẻ, điều
làm cho trẻ cảm thấy mình có sự khác biệt với những trẻ khác.
Trẻ con nuôi phải đấu tranh rất
nhiều trong việc hình thành lòng tự trọng và trong quá trình hình thành bản sắc
cá nhân so với những trẻ sống với cha mẹ ruột. Các chủ đề liên quan đến bản sắc
cá nhân trở thành mối bận tâm đặc biệt đối với những vị thành niên biết mình là
con nuôi, nhất là những trường hợp mất đi rất nhiều thông tin từ gia đình gốc.
Những trẻ đó thường tự hỏi tại sao mình lại được nhận làm con nuôi; trẻ cũng thắc
mắc cha mẹ ruột và gia đình gốc của mình như thế nào, làm gì và sống ra sao...
Trẻ cũng đấu tranh rất nhiều khi biết rằng mình có một gia đình hiện đang “ở
đâu đó”, với những anh chị em và những thành viên khác trong đại gia đình mà
mình chưa hề gặp mặt. Những chủ đề vẫn có thể nẩy sinh trong trường hợp trẻ biết
thông tin về gia đình gốc, tuy nhiên trong tình huống đó, trẻ có cơ hội để duy
trì được một cách liên hệ thế nào đó với mẹ ruột của mình và có thể trực tiếp
có được những thông tin thỏa đáng về gia đình gốc của mình.
Những cảm giác có lỗi cũng có thể
kèm theo những vấn đề và các bận tâm về nhân thân. Trẻ con nuôi có thể cảm thấy
mình đang phản bội hoặc đang làm tổn thương gia đình cha mẹ nuôi khi bày tỏ ước
muốn được biết về gia đình gốc của mình. Trong viễn cảnh tốt nhất, trẻ có thể
không nhất thiết có những bận tâm như thế nếu như cha mẹ nuôi có thể trực tiếp
nêu ra trước những nỗi bận tâm của họ. Ngay cả trong tình huống đó, trẻ vẫn ít
nhiều cảm thấy đau khổ và khó khăn.
Điều hiển nhiên là khi nhận con
nuôi, cha mẹ nuôi thường lựa chọn những trẻ có sự tương đồng về thể chất với bản
thân mình (ví dụ ở các nước đa chủng tộc thì phải có cùng màu da, cùng chủng tộc...)
để tránh nẩy sinh những
câu hỏi từ người ngoài về nhân thân của trẻ. Một số trẻ con nuôi cũng có thể bị
chúng bạn trêu chọc và cảm thấy xấu hổ vì mình là con nuôi.
Không phải tất cả trẻ con nuôi đều
biểu thị mối quan tâm đến lịch sử gia đình gốc của mình. Một số trẻ dần trở nên
nhận thức được điều rằng hầu hết các trường hợp cho con nuôi đều xảy ra khi người
mẹ ruột gặp khó khăn về tài chính hoặc không có tình cảm yêu thương để nuôi
con, do vậy trẻ thấy rằng mình sẽ chẳng được gì cả khi thắc mắc hoặc tìm kiếm
thông tin về gia đình gốc của mình. Những trẻ như thế thích xem việc mình là
con nuôi như thể một “thỏa thuận đã được thực hiện” và cứ sống với những người
thân hiện tại; quá khứ cứ ở lại trong quá khứ. Chẳng có gì sai khi đứa trẻ bày
tỏ quan tâm về gia đình gốc của mình, và cũng chẳng có gì sai cả khi đứa trẻ
không thể hiện một sự quan tâm như thế. Cả hai tình huống đều “bình thường”, nếu
không nói là cả hai tình huống đều có lúc khiến trẻ đau khổ.
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NGƯỜI MẸ RUỘT
SAU KHI CHO CON NUÔI
Mặc dù quá trình cho nhận con
nuôi là một việc làm theo luật định và quyền nuôi con của mẹ ruột đã chấm dứt
nhưng người mẹ ruột vẫn chẳng thể quên hoặc ngừng bị ảnh hưởng bởi việc cho con
nuôi. Ngay cả khi có sự đoan chắc rằng việc cho con nuôi là một việc đáng làm,
việc này vẫn là một quá trình khó khăn, đau buồn đối với nhiều người mẹ, và vẫn
ảnh hưởng đến cuộc sống của họ nhiều năm sau đó.
Trước tiên, người mẹ có thể trải
qua nỗi đau buồn do mất con. Ngay cả khi nỗi đau buồn này đã qua, nó vẫn có thể
trỗi dậy trở lại và có thể được cảm nhận như là “mới vừa xảy ra” vào những thời
điểm có tính “kỷ niệm”, chẳng hạn như đến ngày sinh nhật của trẻ chẳng hạn...
Trong trường hợp cho con nuôi “đóng” (close adoption: nghĩa là gia đình gốc
không biết gì về trẻ), người mẹ ruột có thể đau khổ vì bị mất khả năng chia sẻ
với đứa trẻ khi có những sự kiện quan trọng trong đời sống của trẻ. Trường hợp
cho con nuôi “mở” (open adoption: nghĩa là gia đình gốc vẫn biết về trẻ), người
mẹ ruột vẫn có thể gặp khó khăn bởi vì bà có thể vẫn hiện diện khi có những sự
kiện như thế và hành xử như thể là mẹ của trẻ nhưng thay vì thế bà chỉ ở vào vị
thế của một người hơi một chút trên mức bạn thân hoặc bà con trong họ mà thôi.
Bà có thể đau buồn vì đã mất đi một quan hệ thân thiết mà “lẽ ra bà đã có thể
có” đối với trẻ.
Tuy vậy, những nỗi đau buồn của mẹ
ruột trong trường hợp cho con nuôi “đóng” có thể phần nào được nguôi ngoai bởi
ý nghĩ rằng trẻ đã có thể có được những cơ hội và trải nghiệm sống tốt hơn
trong gia đình đã nhận nuôi trẻ. Trường hợp cho con nuôi “mở”, người mẹ ruột
có thể
trực tiếp nhìn thấy những cơ hội, niềm vui và hạnh phúc mà con mình đã nhận được
từ gia đình nhận nuôi trẻ, và cũng nhận thấy rằng bà đã làm được điều hay trong
số nhiều lựa chọn cho con.
Chuyện hôn nhân trong tương lai của
người mẹ ruột cũng chịu ảnh hưởng bởi việc cho con nuôi. Bà phải quyết định có
nên bàn với người yêu hoặc chồng mình về việc đã cho con nuôi trong quá khứ hay
không, và (trong trường họp cho con nuôi “mở”) vai trò của người kia sẽ như thế
nào trong mối quan hệ vẫn đang tiếp diễn của bà với đứa trẻ. Việc có kể ra chuyện
đã cho con nuôi hay không là một quyết định rất khó khăn vì người mẹ ruột của
trẻ lo sợ sẽ bị người yêu hoặc chồng mình phê phán, chê trách. Bà cũng phải suy
nghĩ và quyết định xem có nên chia sẻ thông tin về đứa con đã cho người khác
nuôi với những đứa con khác trong tương lai của mình hay không và khi đó (trong
trường hợp cho con nuôi “mở”) sẽ định hình mối quan hệ như thế nào giữa đứa con
sau này với người anh hoặc chị cùng mẹ đã được cho con nuôi.
NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI KHÁC VỀ VIỆC
CHO CON NUÔI VÀ CÁC CHỦ ĐỀ CẢM XÚC KHÁC
Người mẹ muốn cho con nuôi thường
thấy khó khăn trong việc kể chuyện này cho bạn bè và người thân. Đặc biệt là
khi trong gia đình có người chống lại ý định này; họ có thể phản đối ý định cho
con và muốn người mẹ tự mình nuôi con. Tuy nhiên, quyết định sau cùng vẫn là của
người mẹ tùy theo lợi ích của đứa trẻ và người mẹ. Dẫu sao người mẹ cũng rất cần
sự hỗ trợ của gia đình mình khi bà đang trải qua quá trình suy nghĩ và cho con
nuôi. Đồng thời, những cảm giác đau buồn và mất mát cũng xảy ra không chỉ cho
người mẹ mà có thể ở cả những người thân khác trong gia đình và cần thời gian để
nguôi ngoai.
Những vấn đề cảm xúc mà người mẹ
có thể gặp phải trong quá trình cho con nuôi bao gồm đau khổ, xấu hổ, có lỗi và
ngờ vực. Ngay cả khi việc cho con nuôi được xem là giải pháp tốt nhất cho đứa
trẻ và cho bản thân thì người mẹ vẫn cảm thấy mình bị thất bại trong vai trò một
người mẹ. Một trải nghiệm khác cũng thường gặp đó là ý nghĩ rằng vì mẹ đã từ chối
con nên đứa con sau này sẽ căm ghét bà vì bà đã ruồng bỏ nó. Bà cảm thấy xấu hổ
khi phải trả lời cho các câu hỏi liên quan đến việc mang thai đứa trẻ và về quyết
định đã trao đứa trẻ cho người khác nuôi.
Sự hoài nghi, ngờ vực có thể xảy
ra bất cứ khi nào có một quyết định quan trọng trong đời và nó có thể xảy ra
trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình suy nghĩ và quyết định cho con nuôi từ
lúc còn mang thai cho đến cả sau khi đã sanh đứa trẻ. Cảm xúc ngờ vực khi xảy
ra không có nghĩa quyết định cho con nuôi là thiếu căn cứ chắc chắn. Ở những quốc
gia có dịch vụ đầy đủ về cho nhận con nuôi, người mẹ trong trường hợp đó cần phải
trao đổi với nhân viên xã hội hoặc nhà tham vấn về những nỗi bận tâm của mình để
xem xét lại lý do khiến mình quyết định cho con nuôi.
Sau khi sinh trẻ, người mẹ thường
trải qua những cảm nhận về sự đau buồn và mất mát nhất là khi trẻ được chuyển
giao cho gia đình cha mẹ nuôi. Mặc dù trẻ vẫn sống, vẫn hiện hữu một trải nghiệm
thực sự về sự mất mát mà người mẹ phải nỗ lực để thích ứng. Cảm xúc đau buồn
(grief) là một tiến trình cảm xúc mà con người trải nghiệm khi những mối quan hệ
quan trọng của mình bị gián đoạn hoặc kết thúc, chẳng hạn như cái chết, chia
ly, ly hôn, hoặc khi những thứ quan trọng bị hủy hoại hay mất mát. Có hai hình
thức mất mát khiến con người đau buồn. Loại thứ nhất là khi có một sự mất mát
thực sự một người hoặc một thứ gì đó rất quan trọng trong đời sống; loại mất
mát thứ hai là sự mất mát có tính biểu trưng của những sự kiện đã không thể xảy
ra trong tương lai do có sự mất mát thực sự đã nêu trên. Khi cho con nuôi, người
mẹ ruột có thể đau buồn vì sự ra đi của đứa trẻ để sang sống ở gia đình khác (mất
mát thực); thêm vào đó, bà còn đau khổ vì bị mất đi những sự kiện có ý nghĩa mà
lẽ ra bà có thể chia sẻ với đứa trẻ sau này như sinh nhật, lễ tốt nghiệp hoặc
ngày cưới chẳng hạn.
Đau buồn là một tiến trình bình
thường và tự nhiên mà con người phải cố sức để vượt qua. Việc đương đầu với những
cảm xúc xảy ra trong tiến trình đau khổ làm cho con người mất nhiều thời gian
và năng lượng, kể cả về thể chất lẫn tinh thần. Con người thường cũng có thể
biểu hiện đau buồn bằng nhiều cách. Có người bộc lộ sự đau buồn ra ngoài; có người lại che giấu nó
vào bên trong. Một số người có sự đau buồn qua nhanh; số người khác lại cần nhiều
thời gian mới có thể nguôi ngoai được nỗi khổ. Tất cả đều bình thường. Không có
cách đau buồn nào là “đúng” cả. Hay nói cách khác, mỗi người chọn kiểu đau buồn
thích hợp nhất với bản thân mình và với sự mất mát của
mình.
Tiến trình cho con nuôi cũng có
thể kích hoạt những cảm xúc tích cực. Một số phụ nữ cảm thấy vui và đầy hy vọng
khi đang thu xếp một đời sống tương lai tốt đẹp cho con. Họ tập trung vào những
giấc mơ và ước muốn về đứa trẻ và những cơ hội mà nó có thể có trong gia đình của
cha mẹ nuôi, những điều mà họ không có khả năng lo được cho con. Ngoài ra, người
mẹ cũng cảm thấy được giảm nhẹ rất nhiều vì sẽ không còn đối diện với tình huống
khó khăn là phải xem xét với quá nhiều những lựa chọn cho tương lai của con.
Cũng có thể có những cảm giác tích cực khác chẳng hạn như lòng biết ơn đối với
cha mẹ nhận nuôi trẻ hoặc cảm giác hài lòng vì mình đã giúp đỡ một cặp vợ chồng
hiếm muộn đã nhiều năm chờ đợi trải nghiệm được vai trò làm cha mẹ.
CÁC HÌNH THỨC CHO NHẬN CON NUÔI
Mặc dù có những khác biệt giữa
các quốc gia, nói chung có ba hình thức cho nhận con nuôi được quy định bởi luật.
Hình thức “đóng” (closed
adoption)
Là hình thức cho nhận con nuôi
trong đó cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi không tiếp xúc với nhau, chẳng hề gặp nhau
và không nhận thông tin gì về nhau cả. Mẹ ruột giao hẳn trẻ cho cơ quan phụ
trách con nuôi và không nhận thông tin gì về gia đình nhận nuôi trẻ. Tất cả những
thông tin về gia đình gốc của trẻ cũng được tòa án niêm phong. Các thông tin
này không được công bố cả cho gia đình cha mẹ nuôi lẫn cho bản thân đứa trẻ,
ngoại trừ thông tin về tình trạng sức khỏe, bệnh tật của cha mẹ ruột. Ở Hoa Kỷ,
hầu hết các các dạng cho nhận con nuôi cho đến nay đều ở dạng “đóng”; tuy
nhiên, hình thức này đang giảm dần bởi vì trong nhiều trường hợp người mẹ ruột
ngày nay có khuynh hướng muốn biết về việc ai sẽ là người sau cùng nhận nuôi trẻ.
Hình thức “nửa đóng, nửa mở”
(semi-open adoption)
Là hình thức cho nhận con nuôi
trong đó người mẹ ruột có một phần tham gia vào việc lựa chọn gia đình nào sẽ
có cơ hội nhận nuôi đứa trẻ. Trong hình thức này, một danh sách các gia đình có
tiềm năng nhận con nuôi sẽ được trình bày cho người mẹ ruột và bà có thể lựa chọn
gia đình nào mà bà nghĩ rằng thích hợp nhất dành cho con mình. Mặc dù nhiều
thông tin về các gia đình tiềm năng này được cung cấp cho người mẹ, các thông
tin liên quan đến nhận dạng cá nhân như họ tên, địa chỉ sẽ không được cung cấp.
Việc tiếp xúc cá nhân giữa mẹ ruột và gia đình được chọn có thể xảy ra hoặc
không xảy ra trong quá trình cho nhận con nuôi tùy theo nguyện vọng của hai
phía đối tác tùy trường hợp. Một số gia đình có thể chọn cách gặp nhau trong thời
gian trước khi đứa trẻ được sinh ra; một số lại chọn cách duy trì sự ẩn danh.
Trong mọi trường hợp, việc tiếp xúc giữa mẹ ruột và cha mẹ nuôi phải chấm dứt
ngay khi có quyết định chính thức về việc sắp xếp đứa trẻ về với gia đình cha mẹ
nuôi.
Hình thức “mở” (open adoption)
Là hình thức cho nhận con nuôi
trong đó cả hai phía cho và nhận con nuôi đều chia sẻ thông tin với nhau. Không
một rào cản nào được thiết lập đối với sự tiếp xúc giữa hai phía đối tác, cả
trước và sau khi chính thức có quyết định giao nhận đứa trẻ. Hình thức “mở” bắt
đầu bằng hình thức “nửa đóng, nửa mở”, khi người mẹ ruột được xem xét danh sách
các gia đình tiềm năng lúc đầu còn được giữ ẩn danh. Sau khi người mẹ lựa chọn
gia đình nào sẽ nuôi trẻ, cả hai phía có quyền lựa chọn cách thức gặp gỡ để
chia sẻ thông tin, cả sau khi quyết định giao nhận con nuôi đã được chính thức.
Nếu hình thức “mở” được chọn khi
đứa trẻ còn chưa ra đời, cha mẹ nuôi cũng có hể được mời đến dự kiến lúc bà mẹ
chuyển dạ và sinh đứa trẻ. Sau khi giao nhận, có thể vẫn duy trì một số tiếp
xúc thường lệ giữa cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi; mức độ tiếp xúc có thể khác nhau
tùy sự lựa chọn của các gia đình. Trong một số trường hợp, việc tiếp xúc chỉ dừng
lại ở mức độ gửi thư từ và hình ảnh của trẻ cho cha mẹ ruột mà không có sự tiếp
xúc trực tiếp; trong trường hợp khác người mẹ ruột có thể trở thành một thành
viên của gia đình mới và có thể được mời đến tham
dự những cuộc lễ lạc hoặc họp mặt.
KHI ĐỨA CON NUÔI TÌM KIẾM CHA MẸ
RUỘT
Trong lúc có những trẻ là con
nuôi chẳng hề quan tâm đến việc tìm kiếm cha mẹ ruột của mình thì một số trẻ
khác lại trở nên tò mò vì điều đó khi trẻ lớn lên. Trẻ có thể tìm kiếm những
thông tin về cha mẹ ruột ở một mức độ nào đó để tự trả lời cho các câu hỏi của
mình. Mức độ và động cơ của việc tìm kiếm thông tin cũng có rất nhiều kiểu. Trẻ
có thể muốn biết cha mẹ ruột là ai và tại sao họ lại cho trẻ làm con nuôi. Trẻ
cũng có thể muốn biết mình có những anh chị em khác hay không. Trẻ có thể cũng
muốn có những cảm xúc gắn bó với cha mẹ ruột của mình. Hoặc trẻ đơn thuần chỉ
muốn biết các thông tin về mặt sức khỏe mà chỉ cha mẹ ruột mới có thể trả lời;
và lý do này lại có thể trở nên nổi trội vào thời điểm sau này khi trẻ đã kết
hôn và dự tính có con.
Khi đứa con nuôi có ý định tìm kiếm
thông tin về cha mẹ ruột, điều đó có thể khiến cha mẹ nuôi lo sợ rằng trẻ rời bỏ
họ. Tuy nhiên, cha mẹ nuôi nên thấy rằng việc trẻ tìm kiếm thông tin về cha mẹ
ruột không có nghĩa là trẻ không còn yêu thương họ hoặc không còn xem họ như
gia đình thực sự của trẻ nữa. Thay vào đó, trẻ quyết định tìm kiếm thông tin bởi
vì trẻ cần câu trả lời cho những điều mà cha mẹ nuôi không có khả năng giải đáp
cho trẻ. Cha mẹ cần giúp trẻ bằng cách cung cấp cho trẻ tất cả những thông tin
mà họ biết vào thời điểm giao nhận con nuôi, kể cả khi những thông tin này
không đủ để thỏa mãn sự tò mò của trẻ.
Khả năng nhận biết thông tin về
cha mẹ ruột có thể bị ảnh hưởng bởi hình thức cho nhận con nuôi đã được thực hiện,
sự cởi mở chia sẻ thông tin từ cha mẹ nuôi với trẻ và các quy định khác bởi
pháp luật. Trường hợp cho nhận con nuôi theo hình thức “đóng”, nếu đứa trẻ sau
này cần biết các thông tin liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của gia đình gốc,
trẻ có thể yêu cầu tòa công khai các thông tin đã được niêm phong về gia đình gốc
của mình.
Trường hợp trẻ hoàn tất được việc
tìm kiếm và biết được về cha mẹ ruột của mình là ai, đang ở đâu, đứa con nuôi
(và cả gia đình cha mẹ nuôi, nếu trẻ còn nhỏ) cần phải xem xét giải quyết các vấn
đề có liên quan đến việc tiếp xúc với cha mẹ ruột như làm thế nào để tiếp xúc,
hình thức tiếp xúc như thế nào và nhịp độ tiếp xúc nhiều ít ra sao... Nếu khi
trẻ tiếp xúc với cha mẹ ruột mà không phải do thỏa thuận trước, trẻ cần phải
chuẩn bị trước khả năng rằng cha mẹ ruột có thể không muốn gặp trẻ, hoặc từ chối
một cuộc gặp như thế. Khi điều đó xảy ra, nó có thể là câu trả lời về tình trạng
tâm lý của cha mẹ ruột và có thể gây tổn thương cho đứa trẻ. Gia đình cha mẹ
nuôi nên giúp trẻ đương đầu với tình trạng này bằng cách tiếp tục duy trì sự
yêu thương và hỗ trợ trẻ như họ đã từng làm lâu nay, bằng cách lắng nghe những
cảm xúc của trẻ và giúp trẻ xử lý cũng như cảm nhận về chúng một cách đầy đủ.
VAI TRÒ CỦA CHA MẸ RUỘT TRONG VIỆC
CHO NHẬN CON NUÔI
Trong việc cho nhận con nuôi dưới
hình thức “mở”, cha mẹ ruột trong một chừng mực nào đó vẫn còn là một phần
trong cuộc sống của trẻ sau khi đã được nhận bởi gia đình cha mẹ nuôi. Ngay cả
trong hình thức “đóng”, việc tiếp xúc sau này với cha mẹ ruột cũng là điều đáng
bàn đến vì trẻ vẫn thường có động cơ tìm kiếm cha mẹ ruột của mình.
Trong quá trình cho con nuôi hình
thức mở, cơ quan phụ trách vấn đề con nuôi sẽ làm việc với hai phía cho và nhận
con để quy định việc tiếp xúc giữa trẻ và cha mẹ ruột sẽ diễn ra như thế nào.
Những quy định cũng xem xét đến những thay đổi trong tương lai tùy theo những ước
muốn sau này của trẻ cũng như tùy theo hậu quả của những tiếp xúc như thế.
CHO NHẬN CON NUÔI GIỮA CÁC QUỐC
GIA
Việc cho nhận con nuôi giữa các
nước khác nhau có thể gặp các vấn đề như hàng rào ngôn ngữ, khác biệt văn hóa,
tuổi của trẻ và các vấn đề về sức khỏe.
Vấn đề về ngôn ngữ
Trẻ ở tuổi biết đi hoặc lớn hơn sẽ
có thể có một ít khả năng phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ. Lý tưởng là nên có ít nhất
một trong hai cha mẹ nuôi là người có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ để giao
tiếp với trẻ. Ngôn ngữ cũng có thể phát triển chậm một chút tùy theo tuổi của
trẻ lúc bắt đầu được nhận nuôi bởi cha mẹ nuôi người nước ngoài không sử dụng
tiếng mẹ đẻ của trẻ. Trẻ còn nhỏ có thể lĩnh hội ngôn ngữ mới dễ dàng hơn và tự
nhiên hơn so với trẻ lớn và người lớn. Mặc dù vậy, vấn đề về ngôn ngữ không hẳn
là điều không thể vượt qua.
Một số vấn đề sức khỏe chuyên biệt
Các vấn đề sức khỏe của đứa trẻ
cũng là việc mà cha mẹ nuôi rất quan tâm. Trẻ có thể bị suy dinh dưỡng hoặc có
những tật bệnh mà không được sự lưu tâm đầy đủ, do vậy cha mẹ nuôi được khuyến
cáo (nhất là ở các nước phát triển có nhiều cha mẹ muốn nhận con nuôi) phải
khám sức khỏe cho trẻ sau khi nhận nuôi.
Tuổi của đứa trẻ
Vì nhiều lý do khác nhau, trẻ được
cho nhận con nuôi xuyên quốc gia thường có thể không được ghi nhận chính xác lứa
tuổi của mình. Trong trường hợp không biết rõ ngày sinh, cơ quan con nuôi phải
cố gắng thực hiện việc đánh giá gần đúng với tuổi thực của trẻ và cần phải cho lại
một ngày sinh chính thức để cha mẹ nuôi có thể kỷ niệm sinh nhật cho trẻ sau
này.
Các khác biệt văn hóa
Nếu trẻ đã lớn khi được nhận
nuôi, những hành vi và niềm tin trong văn hóa cũ của trẻ có thể phần nào can dự
vào khả năng thích nghi của trẻ khi sống với gia đình cha mẹ nuôi. Trẻ cũng cần
được hướng dẫn lại một số niềm tin và tập quán, chẳng hạn như một số trẻ được
giáo dục trong nền văn hóa của mình rằng sẽ không tốt nếu nói chuyện mà nhìn
vào mắt người khác, trong khi đó điều này lại được tin ngược lại khi ở Hoa Kỳ:
nói chuyện mà không nhìn mắt được xem là thiếu tôn trọng người đối thoại. Cha mẹ
nuôi cũng cần làm cho giai đoạn chuyển tiếp của trẻ trở nên dễ dàng hơn bằng
cách bản thân mình phải học hỏi nhiều về nền văn hóa gốc của trẻ và công khai chỉ
cho trẻ biết những khác biệt trong nền văn hóa mới mà trẻ cần biết.
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ SỨC KHỎE KHÔNG ĐƯỢC
BIẾT HOẶC KHÔNG ĐƯỢC NGỜ TỚI
Một vấn đề thường khiến cha mẹ
nuôi lo sợ là khi họ biết được về những vấn đề sức khỏe của đứa trẻ mà họ đã
không được biết vào thời điểm ban đầu nhận nuôi trẻ. Mặc dù họ đã có nhiều cố gắng
lúc ban đầu nhưng vấn đề này đôi khi vẫn không thể tránh được hoàn toàn. Nhiều
vấn đề sức khỏe có tính gia đình đôi khi chỉ xuất hiện khi trẻ đã lớn.
Hai loại rối nhiễu thường hay gặp
ở những trẻ mà lúc nhỏ đã từng bị ngược đãi hoặc bỏ bê, đã được trung chuyển
qua nhiều cơ sở nuôi trẻ hoặc trại mồ côi, đó là “rối loạn gắn bó có tính phản ứng”
(RAD: reactive attachment disorder) và “rối loạn ngang bướng chống đối” (ODD:
oppositional defiant disorder).
Trong trường hợp RAD, đứa trẻ có
vấn đề về khả năng thiết lập sự gắn bó chặt chẽ và đáng tin cậy giữa trẻ vói
người chăm sóc, và do vậy, trẻ sẽ khó khăn trong việc phát triển sự gắn bó với
cha mẹ nuôi. RAD sẽ gây ra nhiều vấn đề khó khăn trong việc tạo lập và duy trì
quan hệ của trẻ với người khác, cũng như trong việc học tập ngôn ngữ và các
hành vi thích nghi xã hội của trẻ. Chậm nói hoặc một số tình trạng chậm phát
triển có thể là hậu quả của việc này. Một số trẻ RAD có thể biểu lộ sự hụt hẫng
của mình qua hành vi bộc phát đối với con người hoặc trên các thú vật nuôi. RAD
nói chung không thể được “chữa trị”, tuy nhiên một khi tình trạng này được phát
hiện sớm, gia đình cha mẹ nuôi và trẻ có thể phải học tập những cách thức quản
lý cảm xúc và hành vi của mình để có thể tiếp tục giữ đứa trẻ đi theo con đường
phát triển đúng đắn nhất.
ODD có liên quan đến những phản ứng
như cãi lời người lớn, chống lại luật lệ, có những hành vi thù địch và chống đối
lại với người chăm sóc trẻ. Trẻ còn nhỏ có thể nhận được những lợi ích thông
qua liệu pháp hành vi; đồng thời phụ huynh cũng có thể được hướng dẫn cách thiết
lập những kỷ luật đúng đắn và hiệu quả. Vị thành niên có khi kém đáp ứng với trị
liệu cũng như khả năng xử lý của phụ huynh; một số vị thành niên được chẩn đoán
là ODD vẫn tiếp tục có tình trạng này cho đến lớn và chuyển thành điều thường
được biết với tên gọi là “rối loạn nhân cách chống đối xã hội” (antisocial
personality disorder).
Ngoài hai tình trạng RAD và ODD
nêu trên, những trẻ đã có thời gian sống trong các cơ sở bảo trợ lưu trú cũng
có thể có những vấn đề khó khăn về hành vi và cảm xúc. Khi không nhận được sự
chăm sóc một cách đầy đủ, những trẻ này sẽ gặp khó khăn không thể tin tưởng và
trông cậy vào người lớn. Khi được nhận nuôi, trẻ có thể trở nên khó quan hệ với
những trẻ khác trong gia đình cha mẹ nuôi và những bạn học trong trường lớp. Trẻ
có thể cất giấu thức ăn hoặc các vật dụng khác. Nếu gia đình cha mẹ nuôi phát
hiện thấy những biểu hiện này, điều cần làm là phải liên hệ với những chuyên
viên tham vấn và gia đình cha mẹ nuôi có cơ hội để tái bảo đảm với trẻ rằng
tình thế sống đã thay đổi và giờ đây trẻ đang sống trong gia đình với cha mẹ
nuôi của mình. Những hành vi tự bảo vệ như thế nay không còn hữu ích nữa và trẻ
có thể từ bỏ chúng một cách an toàn.
HỦY BỎ VIỆC CHO NHẬN CON NUÔI
Một điều cũng thường gây lo ngại
cho cha mẹ nuôi là khi tiến trình cho nhận đang diễn ra thì cha mẹ ruột có thể
thay đổi ý kiến và việc cho nhận con nuôi bị hủy bỏ. Việc cho nhận con nuôi là
một tiến trình chỉ kết thúc sau khi đã có quyết định của tòa án cho nên đây
cũng là khoảng thời gian đáng sợ vì cha mẹ nuôi có thể lo sợ rằng một điều gì
đó không hay xảy ra khiến cho ước mơ nhận con nuôi của họ bị đổ vỡ nửa chừng.
Không có gì bảo đảm rằng mọi việc sẽ diễn tiến hoàn hảo. Mặc dù cố gắng hết sức,
cha mẹ nuôi vẫn cần chuẩn bị cho tình huống cha mẹ ruột có thể thay đổi ý kiến,
đặc biệt là khi đứa trẻ được sinh ra mà trước đó đã có thỏa thuận cho nhận con
nuôi.
NHỮNG NỖI SỢ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC
CHO NHẬN CON NUÔI
Nhận con nuôi không phải là một
việc có thể được thực hiện một cách nhẹ nhàng. Nhìn từ góc độ cha mẹ nuôi, việc
nhận đứa trẻ có liên quan đến trách nhiệm đối với một đời người. Đây là một sự ủy
thác hao tổn nhiều thời gian, công sức, tiền bạc và sự lưu tâm. Thậm chí chuyện
có thể trở nên xấu đi khi họ sống với đứa trẻ. Những người chuẩn bị làm cha mẹ
nuôi vẫn thường trải qua những nỗi lo sợ mà họ cần phải giải tỏa trước khi quyết
định bước vào tiến trình nhận con nuôi. Mặc dù mỗi trường hợp nhận con nuôi có
những tính chất riêng tư độc đáo, ta vẫn có thể tóm tắt một số chủ đề chung sau
đây:
Trước tiên là vấn đề về sự gắn bó
với đứa trẻ. Đối với trẻ, khả năng gắn bó sẽ xuất hiện khi trẻ có được lòng tin
với người chăm sóc và được bảo đảm rằng những nhu cầu của trẻ sẽ được thỏa mãn
một cách hợp lý. Đối với cha mẹ nuôi, sự gắn bó có nghĩa là khi họ nhận thấy trẻ
phản ứng một cách đặc hiệu khi có sự hiện diện của họ và trở nên bình an khi họ
thỏa mãn những nhu cầu của trẻ. Nhiều cha mẹ nuôi e ngại rằng sự gắn bó sẽ gặp
khó khăn hoặc họ sẽ không có được sự gắn bó của trẻ chỉ bởi vì họ không phải là
cha mẹ ruột hoặc họ đã tiếp nhận trẻ sau khi giai đoạn phát triển ban đầu của
trẻ đã trôi qua. Nỗi sợ này là rất chính đáng, tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng những
cha mẹ ruột cũng có thể trải nghiệm những nỗi sợ này ngay sau khi mới sinh con,
đặc biệt là những người mẹ bị mắc chứng trầm cảm sau sinh hoặc những bậc phụ
huynh phải đi xa một thời gian sau khi sinh. Dù trong trường hợp nào nêu trên,
vấn đề cũng có thể được giải quyết bằng cách dành thời gian tương tác với trẻ,
bằng sự kiên trì và thể hiện tình yêu thương, chăm sóc chân thành để thông qua
đó có thể thỏa mãn những nhu cầu của trẻ.
Điều thứ hai là cha mẹ nuôi thường
lo sợ về những vấn đề sức khỏe có thể có của đứa trẻ. Đặc biệt khi ít có hoặc
không có sẵn thông tin gì liên quan đến sức khỏe và bệnh tật của cha mẹ ruột của
trẻ. Điều này có nghĩa là một số vấn đề sức khỏe, bệnh lý di truyền hoặc vấn đề
tâm lý có thể xuất hiện khi trẻ lớn lên sau này và khi chúng xuất hiện, gia
đình hẳn sẽ đối đầu với những thách thức lớn lao.
Điều thứ ba là cha mẹ nuôi lo sợ
rằng đứa trẻ về sau sẽ có thể có những vấn đề khó khăn về hành vi. Họ có thể tự
hỏi rằng liệu mình đã sẵn sàng chuẩn bị đối đầu những thách thức như thế chưa.
Đặc biệt khi đứa trẻ được nhận nuôi đã từng trải qua thời gian sống trong những
cơ sở nuôi dưỡng lưu trú và đã có cuộc sống không được dễ dàng. Những trẻ như
thế thường bộc lộ qua hành động (act out), kiểm tra các giới hạn cũng như những
luật lệ cho đến khi trẻ tin rằng cha mẹ nuôi sẽ không đổi ý và sẽ không gửi trẻ
đi nơi khác. Đây là một việc khó khăn cũng rất cần được xử lý.
Trong hai trường hợp lo sợ về sức
khỏe lẫn hành vi khó khăn của trẻ, những nỗi âu lo của cha mẹ nuôi bao gồm việc
e ngại họ không có khả năng xử lý được những thách thức này và họ cũng sợ trẻ
không thương yêu mình vì sự “bất toàn” của mình. Cha mẹ nuôi cần trao đổi với
những người khác đã trải qua việc nhận con nuôi để có thể hình dung trước về những
khó khăn mà họ có thể gặp phải với đứa trẻ, hoặc tham dự vào các lớp huấn luyện
để hiểu hơn về nhu cầu của những trẻ em đặc biệt này. Bằng cách tự học hỏi, cha
mẹ nuôi có thể trở nên tự tin hơn về khả năng của mình trong việc xử lý các
thách thức này khi chúng nảy sinh.
Sau cùng, một nỗi sợ cũng thường
gặp ở những người muốn nhận con nuôi đó là sợ phản ứng tiêu cực của người thân
và bạn bè khi biết ý định của họ. Người thân và bạn bè có thể bày tỏ những lo
ngại của họ liên quan đến nguồn gốc chủng tộc của đứa trẻ (trường hợp nhận
con nuôi
ở nước ngoài), về khả năng hội nhập của trẻ vào đại gia đình của họ và về những
gánh nặng tài chính cũng như tình cảm mà cha mẹ nuôi phải chịu đựng khi nuôi trẻ.
Tùy theo mức độ phán xét sự việc, những người thân trong gia đình có thể biểu lộ
những thái độ thù địch nhiều cách khác nhau. Cha mẹ nuôi cũng lo sợ những thành
viên khác trong gia đình sẽ lơ là hoặc đối xử thiếu tự nhiên với trẻ. Để giải
quyết điều này, rất cần dành nhiều thời gian để lắng nghe, đối thoại và chia sẻ
ý kiến với nhau trước khi nhận con nuôi. Dù cho việc nhận con nuôi là một quyết
định riêng tư của cha mẹ nuôi, nhưng nó cũng có ảnh hưởng trên cảm xúc và thái độ
của những người khác mà điều này cũng cần phải được xem xét.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.