Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

ĐIỀU GÌ TẠO NÊN HIỆU QUẢ CỦA TÂM LÝ TRỊ LIỆU?

Nguyên tác: Lester A. LeftonLaura Valvatne. Mastering Psychology. Third Edition. Allyn & Bacon. Chapter 15: Psychotherapy, p.588-591.
Người dịch: Nguyễn Minh Tiến


Nhiều người tìm kiếm trị liệu tâm lý đã thắc mắc rằng liệu cách thức can thiệp này có thực sự giúp ích cho họ hay không và việc trị liệu bằng cách nói chuyện có thực sự mang lại điều gì đổi khác hay không. Câu trả lời thật đơn giản: việc trị liệu là có hiệu quả - nhưng không phải tất cả những phương pháp trị liệu, nhà trị liệu và các thân chủ đều giống nhau cả. Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của việc trị liệu tâm lý. Trong số đó, yếu tố quan trọng nhất là phái tính, nhân cách, kinh nghiệm và sự cảm thông của nhà trị liệu. Bất kể việc trị liệu tâm lý thuộc loại nào, một số yếu tố cần phải có ở nhà trị liệu lẫn thân chủ để việc trị liệu tạo được sự thay đổi. Trước tiên, một nhà trị liệu tốt phải bày tỏ với thân chủ sự quan tâm, hiểu biết, tôn trọng, cư xử khéo léo, sự chín chắn và khả năng giúp đỡ. Thứ hai, nhà trị liệu tốt phải có những đề xuất, khích lệ, diễn giải, ví dụ và (có lẽ) cả khen thưởng để giúp thân chủ thay đổi và suy nghĩ lại về tình huống của mình. Thứ ba, thân chủ phải sẵn lòng thực hiện một số thay đổi trong suy nghĩ và lối sống của mình; những thay đổi hành vi của thân chủ sẽ không xảy ra chỉ vì có một người khác muốn họ được hạnh phúc. Một nhà trị liệu có hiểu biết, khách quan và dễ chấp nhận sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thay đổi hành vi, nhưng chính thân chủ sẽ là người thực hiện hành vi đó.

Các yếu tố khác như tầng lớp xã hội, tuổi tác, sự giáo dục, kỳ vọng vào việc trị liệu và mức độ lo âu của thân chủ cũng quan trọng. Động cơ đúng đắn cũng là điều quan trọng; thật khó lòng giúp đỡ hay trị liệu một thân chủ có tính miễn cưỡng. Mục tiêu đầu tiên của việc trị liệu thường là giúp cho thân chủ có được động cơ để thay đổi . Tất cả nhà trị liệu cần nhạy bén trước tất cả những yếu tố này.

Thông thường người ta cho rằng nhiều thân chủ có thể giảm bớt triệu chứng của họ mà không cần trị liệu tâm lý. Quan điểm này liên hệ đến một yếu tố chung của hai liệu pháp nội thị và liệu pháp hành vi: đó là hiệu ứng placebo. Hiệu ứng placebo là khi sự thay đổi hành vi xảy ra như kết quả của một sự thay đổi kỳ vọng nơi đương sự hơn là kết quả của bất kỳ điều trị đặc hiệu nào. Các bác sĩ đã thấy rằng khi bệnh nhân được kê toa những viên thuốc đường vô hại và được bảo rằng những viên thuốc này có thể trị được bệnh, thì đôi khi những triệu chứng bệnh cũng giảm bớt. Tương tự, những người được trị liệu tâm lý cũng có thể giảm triệu chứng, đơn giản chỉ vì họ được đưa vào trị liệu và giờ đây đang trông chờ sự thay đổi. Hiệu ứng placebo trong trị liệu tâm lý chỉ xảy ra thoáng qua; bất kỳ một hiệu quả trị liệu nào có tính lâu dài đều có nhiều khả năng là do sự cố gắng của thân chủ và của nhà trị liệu trong quá trình trị liệu. 

Có nhiều thử thách đối với hiệu quả của trị liệu tâm lý. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng trị liệu tâm lý rất có hiệu quả. Một trong số những nghiên cứu quan trọng nhất của Smith và Glass (1977), dùng các kỹ thuật thống kê tinh vi để phân tích kết quả của những phương pháp trị liệu khác nhau. Những nghiên cứu phân tích hiệu quả toàn bộ của trị liệu tâm lý cũng cho thấy hiệu quả tích cực trong một số lớn các tình huống. Tuy nhiên, hiệu quả trị liệu thay đổi tùy theo loại rối loạn được trị liệu. Ví dụ, trị liệu tâm lý có tỉ lệ thành công cao với những chứng ám ảnh sợ đặc hiệu (specific phobia), nhưng ít thành công với những bệnh tâm thần phân liệt, trị liệu nhóm dài hạn được thấy hiệu quả hơn trị liệu cá nhân ngắn hạn trong một số rối loạn, và trị liệu hành vi thường là phương pháp có hiệu quả nhất ở trẻ em.

Nhiều nhà nghiên cứu đoan chắc rằng hầu hết các cách trị liệu tâm lý đều tương đương nhau, nghĩa là bất kể phương pháp nào được áp dụng, kết quả thường là như nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà nghiên cứu đều tin rằng như vậy. Nhà tâm lý nổi tiếng Alan Kazdin (1986) khẳng định nghiên cứu về hiệu quả của điều trị tâm lý là rất khó thực hiện và khó diễn giải. Ông cho rằng những nghiên cứu như thế thường được thực hiện trong một điều kiện lý tưởng, dùng những biện pháp tiếp cận hạn hẹp, không thể mô phỏng những tình huống trị liệu như trong thực tế. Ví dụ, nghiên cứu thường được thực hiện với những thân chủ được thu hút qua các quảng cáo trên báo; liệu những nghiên cứu như thế có tính phổ quát đối với số thân chủ thực tế không? Kazdin không nói rằng những nghiên cứu đó không nên thực hiện, nhưng mục tiêu hạn hẹp của nó cần được đánh giá cẩn thận và cần phải phát triển thêm những nghiên cứu mới. Có lẽ sẽ vô vọng khi trả lời câu hỏi: “phương pháp trị liệu nào tốt nhất?”; thay vì vậy, việc trả lời cho một câu hỏi như: “phương pháp trị liệu nào hữu ích cho thân chủ nào, với vấn đề nào và với nhà trị liệu như thế nào?” có lẽ sẽ được diễn đạt tốt hơn. Không phải tất cả các thân chủ, nhà trị liệu, phương pháp trị liệu và thời gian trị liệu đều tương tự như nhau. Vì những lý do này, việc nghiên cứu về trị liệu cần nhắm vào cả lý thuyết và thực hành. Trị liệu tâm lý là có hiệu quả, nhưng việc nghiên cứu được thực hiện để khảo sát đã không được hoàn hảo như các nhà tâm lý thực hành mong muốn. Các chiến lược nghiên cứu mới về trị liệu tâm lý còn đang được triển khai. Khi có thêm nhiều nghiên cứu được hoàn chỉnh, chúng ta có thể thấy rõ phương pháp trị liệu nào là hiệu quả đối với loại rối loạn nào, cho đối tượng nào. 

Về mặt thực hành, làm thế nào thân chủ và nhà trị liệu biết được việc trị liệu là có tiến bộ? Theo Mahrer và Nadler (1986), có 11 dấu hiệu của tiến triển tốt trong trị liệu: 
  1. Thân chủ đang cung cấp và bộc bạch những tư liệu riêng tư có ý nghĩa
  2. Thân chủ đang khám phá những ý nghĩa của cảm xúc và sự việc
  3. Thân chủ đang khám phá những tư liệu mà họ tránh né trước khi trị liệu
  4. Thân chủ đang bày tỏ khả năng nội thị đáng kể trong hành vi cá nhân của họ
  5. Thân chủ có cách giao tiếp chủ động, nhanh nhẹn, giàu nghị lực
  6. Có một quan hệ quý trọng lẫn nhau giữa nhà trị liệu và thân chủ
  7. Thân chủ tự do bày tỏ những cảm xúc mạnh của mình (tích cực hoặc tiêu cực) đối với nhà trị liệu 
  8. Thân chủ bày tỏ những cảm xúc mạnh ngoài thời gian trị liệu
  9. Thân chủ hướng đến một hệ thống những đặc trưng nhân cách khác
  10. Thân chủ biểu hiện sự cải thiện khả năng ngoài lúc trị liệu
  11. Thân chủ cho thấy có tình trạng tổng quát tốt, những cảm xúc tốt và thái độ tích cực.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.