BS NGUYỄN MINH TIẾN Tổng hợp
TÊN GỌI VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH LIỆU
PHÁP
Trò chơi trên cát là một loại
công cụ sử dụng trong chơi trị liệu (play therapy) – một hình thức tâm lý trị
liệu cho trẻ nhỏ có vấn đề tâm lý, đôi khi có thể áp dụng cho cả trẻ lớn, vị
thành niên, cá nhân người lớn hoặc cả gia đình. Những hình mẫu thu nhỏ (miniatures),
tượng trưng cho những con người, thú vật, hoặc sự vật thông thường có thật
trong thực tế, sẽ được sử dụng để tạo nên những bối cảnh và nội dung chơi trên
bề mặt của cát. Tên thông dụng trong tiếng Anh chỉ cách làm này là sandplay
(trò chơi trên cát) hoặc sandtray therapy (liệu pháp chơi trên khay cát), hoặc
như cách gọi tên của Magaret Lowensfeld (tác giả của phương pháp) là World
Technique (Kỹ thuật Thị hiện Thế giới). Phép tiếp cận này được sử dụng trong một
bối cảnh có tính nghi thức, có sự chuyển tiếp hoặc như một phương pháp chữa
lành các sang chấn, đau khổ về tinh thần. Trong bài này để đơn giản chúng tôi sẽ
gọi tên phương pháp là “Trò chơi trên cát” khi gọi với ý nghĩa chung và “liệu
pháp khay cát” khi phương pháp được áp dụng trong bối cảnh trị liệu tâm lý.
Liệu pháp khay cát được phát triển
nên bởi bác sĩ Magaret Lowensfeld trong thập niên 1920 do bà đã cảm hứng khi đọc
Floor Games (Trò chơi trên sàn nhà) của H.G. Wells (1906), và được áp dụng tại
Trung tâm Trị liệu Trò chơi tại Luân Đôn, Anh quốc. Wells và các con trai của
mình đã cùng chơi những trò chơi trên sàn nhà; họ chọn lấy đồ chơi là những
hình mẫu thu nhỏ để bày ra những cảnh chơi đầy kịch tính trên sàn nhà của một
căn phòng sau khi đã dọn sạch các vật dụng khác. Những trò chơi này đã cho phép
gia đình của Wells có được một phương tiện để khám phá về một thế giới sau chiến
tranh. Và Wells cũng đã khuyến cáo các nhà chính trị, những lãnh đạo các quốc
gia và cả trẻ em nên tham gia vào một tiến trình chơi như thế.
Lowensfeld, cũng giống như Freud,
Klein và Winnicott, hiểu rằng trẻ em cần có những loại công cụ khác không phải
ngôn ngữ để có thể giao tiếp và có thể tạo nên ý nghĩa cho những trải nghiệm của
mình. Bà cũng nhận ra hoạt động chơi có khả năng giúp chuyển biến và tổng hợp lại
những thế giới quan còn hạn chế của trẻ. Bằng sự thông thái của mình, bà đã
không chỉ đưa thêm vào khay đựng những nội dung chơi mà còn cho cả cát và nước
vào để cho phép đứa trẻ giải bày ra những trạng thái sinh học và siêu hình rất
phức tạp. Bộ công cụ này nhằm giúp trẻ cảm nhận được các trải nghiệm của mình
chứ không giúp gia tăng khả năng diễn giải của nhà trị liệu về thực tại của đứa
trẻ.
Những thân chủ trẻ con của
Lowensfeld đã sử dụng các vật liệu chơi này một cách hết sức nhiệt tình. Bộ
công cụ cũng có những tính chất rất hấp dẫn, đa năng và đa chiều kích. Và đặc
biệt là nó không cần đến bất cứ kỹ năng đặc biệt nào. Thật vậy đã có một đứa trẻ
gọi đó là “Cả thế giới để vui chơi” – điều này khiến bà đôi khi gọi đó là “Trò
chơi Thế giới” (Worldplay; hay tiếng Đức là Weltspiel), đó cũng là tiền thân
cho các tên gọi World Apparatus hoặc Lowensfeld World Technique về sau.
Nhiều thập niên trôi qua kể từ
ngày Lowensfeld đưa kỹ thuật làm việc này vào Trung tâm trị liệu của bà, các
giáo viên, những nhà tư vấn và nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường phái lý thuyết
khác nhau đã cung cấp bộ công cụ này cho những đối tượng mà họ làm việc. Theo
thời gian, trò chơi trên cát đã được sử dụng để giúp con người kết nối và trở
nên quan tâm hơn đến thực tại cá nhân và liên cá nhân trong đời sống con người.
Những nhà thực hành đã sử dụng nó để gia tăng khả năng của ý thức, khả năng tự
bình phục, giảng dạy, học tập, sáng tạo, giao tiếp và những mối quan hệ lành mạnh
giữa con người với nhau.
Do bởi khay cát là công cụ có
tính chất rất hữu hiệu và thú vị, nhiều tác giả đã phát kiến nên những tên gọi
riêng cho phương pháp của mình nhằm mô tả những cách thức tiếp cận cuộc chơi
trên khay cát; mỗi cách gọi tên thể hiện cách thức thực hiện cũng như quan điểm
riêng của từng tác giả về những tiến trình xảy ra trong khay cát.
Liệu pháp khay cát nay đã vươn xa
ra khỏi phạm vi tham vấn và trị liệu tâm lý; nó được áp dụng trong giáo dục,
trong những hành trình tìm kiếm về mặt tinh thần, trong công việc, cũng như bất
cứ hoàn cảnh nào mà những người có nguồn gốc xuất thân và văn hóa khác nhau muốn
hiểu biết lẫn nhau trong thâm sâu con người của mình.
Cách gọi tên phương pháp cũng là
cách thức đặc biệt gợi lên những câu chuyện kể hoặc những thực tại có tính
chuyên biệt. Trong một nghiên cứu về trò chơi trên cát tại Úc, một đứa bé trai
12 tuổi đã gọi tên phương pháp của Lowensfeld là “bức tranh cát” (sand picture)
hoặc “tranh vẽ các ý nghĩ” (thinking picture). Đứa trẻ nói: “Cháu đã nói rất
nhiều về mọi việc đã xảy ra, nhưng ở đây cháu im lặng, cháu bận suy nghĩ. Suy
nghĩ là một người anh em khó tính. Không ai có thể nghe được bạn, nhưng ở đây,
bức tranh trên cát là một thứ suy nghĩ, và người ta có thể nghe thấy nó lên tiếng”.
LIỆU PHÁP KHAY CÁT THEO TRƯỜNG
PHÁI NHÂN VĂN – HUMANISTIC SANDTRAY THERAPY
Liệu pháp khay cát là một hình thức
tâm lý trị liệu có tính năng động và diễn đạt, giúp cho thân chủ có thể giải
bày thế giới nội tâm của họ thông qua các biểu tượng và hình ảnh ẩn dụ. Liệu
pháp khay cát theo trường phái nhân văn nhấn mạnh đến việc hình thành một mối
quan hệ trị liệu sâu sắc và có tính chấp nhận, cùng với một cách tiếp cận xử lý
nội dung trong khay cát chủ yếu dựa trên những trải nghiệm của thân chủ tại đây
và ngay lúc này (here-and-now).
Quan điểm nhân văn tin rằng khi
con người tăng trưởng và phát triển ở lứa tuổi trẻ em và vị thành niên, họ sẽ
có thể bị mất đi mối liên lạc với chính con người mà mình đang là. Họ có thể đã
học cách chấp nhận một số cảm xúc nào đó và không chấp nhận những cảm xúc khác.
Trong tiến trình chối bỏ những gì thuộc về con người thật của mình, họ có thể
trở nên mất liên lạc với bản ngã thực sự của chính mình. Liệu pháp khay cát
theo trường phái nhân văn mang đến những trải nghiệm về sự tái kết nối của con
người với bản ngã chân thực của mình và giúp con người trở lại khám phá các ước
mơ, hy vọng và tầm nhìn của mình.
Giống như liệu pháp chơi (play
therapy) ở trẻ nhỏ, liệu pháp khay cát mang lại một trải nghiệm có tính chủ động,
không lời, gián tiếp và mang tính biểu tượng. Giai đoạn tạo cảnh (scene
creation phase), trong đó thân chủ sắp đặt các hình mẫu thu nhỏ vào trong khay
cát, là một giai đoạn rất quan trọng và cũng là giai đoạn trung tâm đạt đến các
trải nghiệm từ khay cát. Trong liệu pháp khay cát theo trường phái nhân văn,
giai đoạn xử lý (processing phase) sẽ mang lại thêm những trải nghiệm vốn đã
hình thành trong giai đoạn tạo cảnh và cho phép suy xét lại trải nghiệm ấy.
Thông qua giai đoạn xử lý, thân chủ có thể nhìn lại bối cảnh trong khay và trải
nghiệm về tác động của nó.
Tất cả các thành phần như khay
cát, những hình mẫu thu nhỏ, không gian an toàn trong khay cát, những lời nói sử
dụng trong khi chơi trên cát và cả công việc trong giai đoạn xử lý đều có tầm
quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả trị liệu.
TẠI SAO SỬ DỤNG KHAY CÁT?
Khay cát là một loại công cụ sử dụng
cho các hoạt động nghệ thuật mang tính giải bày, diễn đạt. Những gì mà khay cát
mang lại bao gồm:
- Một môi trường được cấu trúc tốt qua đó những hình ảnh ẩn dụ của thân chủ sẽ được tạo lập và được khám phá.
- Một sự trình bày bằng cách hiển thị các vấn đề của thân chủ để quá trình làm việc giữa nhà trị liệu và thân chủ có thể tập trung vào những chủ đề cốt lõi trong suốt phiên trị liệu. Thân chủ có thể nhìn đi nhìn lại những biểu tượng trong quang cảnh mà mình đã tạo dựng, ngay cả khi họ đã khám phá chúng và từ đó thực hiện những sự hướng dẫn từ bên ngoài trở về vấn đề của họ.
- Một trải nghiệm sâu sắc đối với thân chủ. Thân chủ thường ngày hay tránh né sự trải nghiệm đầy đủ về những cảm xúc của mình. Khay cát có thể tạo điều kiện cho thân chủ đi sâu khám phá bản ngã của họ.
- Một phương tiện gián tiếp giúp thúc đẩy các hoạt động có tính trị liệu cho những thân chủ bị bế tắc. Khi thân chủ xem xét các hình ảnh ẩn dụ của họ tạo nên, họ có thể vượt qua các phản ứng phòng vệ và hóa giải các phản kháng.

Liệu pháp khay cát có thể được sử
dụng cho trẻ em từ 8 tuổi trở lên, vị thành niên và cả người lớn. Giống như liệu
pháp chơi, thân chủ được trị liệu với khay cát cũng thể hiện bản thân theo cách
ẩn dụ. Mặc dù trong giai đoạn xử lý, nhà trị liệu sử dụng lời nói nhiều hơn
trong liệu pháp chơi dành cho trẻ nhỏ, việc sử dụng và xử lý hình ảnh ẩn dụ
cũng tương tự như trong liệu pháp chơi.
Nhà trị liệu trường phái nhân văn
xem thân chủ là những người có khả năng tự hiện thực hóa bản thân và vốn có sẵn
khuynh hướng phát huy tiềm năng của mình. Họ có thể tự nhận biết bản thân mình
và chịu trách nhiệm về những lựa chọn của mình. Con người là sinh vật có tính
xã hội và có nhu cầu mạnh mẽ muốn kết nối với người khác. Trong liệu pháp nhân
văn, mối quan hệ trị liệu là nguồn lực nền tảng tạo nên những thay đổi có tính
xây dựng ở thân chủ (Cain, 2002). Mục đích cơ bản của mối quan hệ trị liệu là tạo
nên một bầu khí tối ưu thuận lợi cho sự tăng trưởng xảy ra. Rogers đã viết: “Hầu
hết trẻ em, nếu được sống trong một môi trường bình thường đáp ứng phù hợp với
những nhu cầu về cảm xúc, trí tuệ và xã hội của trẻ, đều có khuynh hướng đạt đến
sự lành mạnh để đáp ứng và thích nghi với đời sống” (Kirschenbaum, 1979).
Khi nhà trị liệu gặp thân chủ, dù
là trẻ em hay người lớn, họ thậm chí còn cần nhiều hơn một “môi trường bình thường
phù hợp” như thế, bởi vì họ đã không thể có được lòng tin của một trẻ nhỏ. Vì vậy,
việc thiết lập một bầu khí tối ưu cho tăng trưởng là điều tuyệt đối quan trọng.
Mối quan hệ trị liệu là trung tâm của bầu khí này, và khả năng tự nhận biết bản
thân cùng với kỹ năng của nhà trị liệu có thể tạo nên bầu khí này và làm chất
xúc tác cho sự tăng trưởng nơi thân chủ.
Trong liệu pháp khay cát, nhà trị
liệu tạo lập một không gian an toàn và có tính chấp nhận để thân chủ có thể đối
diện với các chủ đề cốt lõi của họ. Giống như trong liệu pháp chơi, bản chất
mang tính ẩn dụ của khay cát giúp tạo nên một khoảng cách an toàn để thân chủ
có thể giải bày những cảm xúc đau khổ của họ. Khay cát cho phép thân chủ bộc lộ
bản thân họ dưới hình thức những biểu tượng không lời, đồng thời tạo nên một sản
phẩm phóng chiếu có tính thị hiện những thực tại chủ quan trong nội tâm cũng
như trong các mối quan hệ của thân chủ.
KHAY CÁT – MỤC ĐÍCH VÀ THỜI LƯỢNG
LÀM VIỆC
Chỉ sử dụng khay cát khi thân chủ
đã có được lòng tin khá sâu sắc với nhà trị liệu. Không thực hiện liệu pháp khi
thân chủ vẫn còn lưỡng lự. Homeyer và Sweeney (1998) cho rằng khay cát nên được
sử dụng một cách có mục đích và có dự định. Nhà trị liệu nên trình bày rõ những
mục đích và thời lượng sử dụng khay cát trên từng thân chủ cụ thể. Hai tác giả
này đề nghị sử dụng khay cát như cách thức để thay đổi bước đi trong làm việc với
thân chủ, như một cách thức để tiếp thêm sức mạnh cho tiến trình trị liệu hoặc
đưa việc trị liệu đến các tầng mức can thiệp sâu xa hơn. Khuyến cáo này cũng
phù hợp với điều đã nêu ở phần trên: khay cát có hiệu quả khi làm việc với những
thân chủ bị bế tắc.
GIAI ĐOẠN TẠO CẢNH
Homeyer và Sweeney (1998) thường
cho thân chủ một câu mào đầu trước khi bước vào giai đoạn tạo cảnh như “Bạn hãy
tạo một quang cảnh về đời sống của bạn như nó đang có trong hiện tại. Bạn cũng
có thể sử dụng những hình ảnh trong quá khứ cũng như tương lai nhưng hãy trung
thực với chính bạn về cuộc sống của bạn vào lúc này”.
Trong giai đoạn tạo cảnh, nhà trị
liệu cần phải đặt mình trong hiện tại càng nhiều càng tốt nhưng họ không nói gì
đặc hiệu cả. Điều quan trọng đối với thân chủ là phải có được một trải nghiệm
bên trong về sự kết nối với các hình mẫu thu nhỏ và lựa chọn cái nào trong số
đó để tạo cảnh. Nhà trị liệu không làm gián đoạn tiến trình bên trong này nhưng
cần phải làm cho thân chủ biết rằng nhà trị liệu đang ở cùng thân chủ trong lúc
họ trải nghiệm những phút giây thực hiện việc tạo cảnh.
Điều thú vị là một số nhà trị liệu
khay cát tin rằng tiến trình bình phục trong liệu pháp khay cát chỉ xảy ra
trong giai đoạn tạo cảnh. Vì thế, các nhà trị liệu này không đi qua giai đoạn xử
lý. Một số nhà trị liệu khác lại sử dụng những cảnh quan trên khay cát làm chủ
đề khởi điểm cho các tương tác bằng lời. Việc xử lý các nội dung trong khay cát
bằng lời nói có thể giúp khai triển và mở rộng những việc đang diễn biến trong
nội tâm thân chủ mà những việc này đã bắt đầu trong giai đoạn tạo cảnh.
Giai đoạn tạo cảnh sẽ giúp hình
thành nên sắc thái cho quá trình thân chủ tự thăm dò và khám phá bản thân khi họ
nhìn vào những hình mẫu thu nhỏ và tìm thấy những mối liên hệ với chúng. Một số
thân chủ cảm thấy lạc lối khi tìm cách sắp xếp các hình mẫu thu nhỏ đúng theo ý
mình muốn. Nếu giai đoạn tạo cảnh được trải nghiệm một cách có ý nghĩa đối với
thân chủ, nếu thân chủ nhìn vào và suy nghĩ về những khía cạnh trong đời sống
mà họ thường không chú ý đến, khi đó giai đoạn xử lý đã bắt đầu bên trong nội
tâm của họ. Việc chuyển sang giai đoạn xử lý bằng lời sẽ trở nên tự nhiên hơn rất
nhiều khi thân chủ cho phép bản thân họ trải nghiệm giai đoạn tạo cảnh.
GIAI ĐOẠN XỬ LÝ
Một cách điển hình, nhà trị liệu
sẽ bắt đầu giai đoạn xử lý bằng cách nói với thân chủ: “Hãy nói về quang cảnh
mà bạn đã tạo nên”. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể bắt đầu khi thân chủ cảm nhận
được một điều gì đó ngay trong giai đoạn tạo cảnh. Nhà trị liệu có thể nói: “Bạn
trông có vẻ rất buồn. Bạn đang chú ý điều gì vào lúc này?” Khái niệm về việc hiện
diện cùng thân chủ trong từng khoảnh khắc là khái niệm trung tâm trong cách tiếp
cận nhân văn ở giai đoạn xử lý. Cách tiếp cận nhân văn tập trung vào việc khám
phá chứ không làm kỹ thuật diễn giải. Tiến trình khám phá là một trải nghiệm
sâu sắc. Hầu hết những gì nhà trị liệu thực hiện trong giai đoạn xử lý là tạo
thuận lợi cho tiến trình khám phá và hiểu biết bản thân của thân chủ. Theo luận
điểm của Rogers, những đáp ứng có tính trị liệu và có hiệu lực mạnh mẽ nhất là
những đáp ứng nhằm giúp thân chủ vươn xa hơn mức độ hiểu biết về bản thân mà họ
có trước đó.
TIẾN VÀO NHỮNG CẢM XÚC SÂU LẮNG
HƠN
Nhiều người có thể tự hỏi liệu việc
đi sâu khám phá bản thân có giá trị gì chăng? Tại sao việc đi sâu vào các trải
nghiệm lại có tính trị liệu? Việc trải nghiệm đầy đủ một cảm xúc có giá trị gì?
Trong thực tế, việc cho phép bản
thân trải nghiệm một cách đầy đủ những cảm xúc của chính mình sẽ mang lại cho
người đó nhiều phần tưởng thưởng. Trước tiên, sẽ là một phần thưởng vô giá khi
một người cảm thấy “hòa bình với những vấn đề của chính mình”; “Liệu có cần xây
bức tường ngăn cách với những trải nghiệm của ta hay ta có thể trông cậy vào
chúng?”; “Làm thế nào để ta có thể hài lòng với những trải nghiệm của chính
ta?”...
Điều lợi thứ hai có liên quan đến
một quy luật tự nhiên mà chúng ta đang khám phá: để có thể khơi thông được một
trải nghiệm cảm xúc, ta cần phải trải nghiệm nó một cách đầy đủ. Rogers (1989)
lưu ý rằng một khi những cảm xúc gây phiền nhiễu được cảm nhận đến độ sâu đầy đủ
nhất của chúng thì người ta có thể đi tới. Đây chính là phần rất quan trọng
trong tiến trình thay đổi.
Hãy tưởng tượng một nữ thân chủ
đang tranh đấu với cuộc hôn nhân của cô ấy. Nhà trị liệu yêu cầu cô hãy tạo dựng
một quang cảnh trên khay cát. Trong cảnh ấy, cô đặt một hình mẫu tượng trưng
cho chồng ở một đầu khay cát; một hình mẫu tượng trưng cho cô ở đầu kia. Khi xử
lý quang cảnh, cô nói “Tôi không còn yêu chồng tôi, nhưng tôi sợ rời xa anh ấy”.
Những nhà trị liệu thường làm việc về chủ đề hôn nhân và gia đình vẫn thường
nghe những câu nói đại loại như thế; kiểu phát biểu như thế được gọi là sự phân
cực đối lập (polarity) trong trải nghiệm của thân chủ.
Nhà trị liệu khi ấy có thể nghĩ đến
các chọn lựa trong cách thức đáp ứng với thân chủ trong khi vẫn phải chú tâm
nghiêm túc đến sự phân cực trong phát biểu của thân chủ. Nhà trị liệu có thể hỏi
“Ngay lúc này đây, bạn nhận biết rõ hơn phần nào trong câu nói vừa rồi: phần chứa
ý bạn không yêu chồng nữa hay là phần chứa ý bạn sợ rời xa anh ấy?” Nếu thân chủ
trả lời cô ấy nhận biết rõ hơn về điều mình sợ rời xa chồng, nhà trị liệu sẽ hỏi
“Bạn có cảm nhận nỗi sợ ấy ngay lúc này?” Nếu cô đáp là có, nhà trị liệu sẽ
giúp thân chủ đi sâu hơn bằng cách “Vậy nỗi sợ đó như thế nào? Bạn hãy mô tả nó
xem”.
Nhà trị liệu đôi khi đánh giá
không đầy đủ về những nỗi sợ và sự phản kháng của thân chủ. Ở mỗi thân chủ đều
cùng hiện diện một lúc sự mong muốn thay đổi và nỗi sợ xảy ra thay đổi. Trong
thực tế, ở mỗi con người đều tồn tại tình trạng phân cực đối lập như vậy. Những
quang cảnh trong khay cát thường phác họa nên những trạng thái phân cực đối lập
này hoặc hai khuynh hướng, hai thành phần, hai mong muốn tương phản với nhau. Hầu
như ít có khay cát nào không chứa những điều tương phản như thế. Một cách điển
hình, những hình mẫu thu nhỏ thường được sắp xếp một cách cẩn thận thành từng cụm
ở trong các góc hoặc trên một khu vực nào đó của khay cát. Bất cứ khi nào thân
chủ sử dụng đến những vách ngăn hoặc rào chắn thì thường có nghĩa là sự phân cực
đã xuất hiện.
Trong liệu pháp khay cát, làm việc
trên những điều phân cực theo cách như thế giúp thân chủ và nhà trị liệu “bảo tồn
rất nhiều năng lượng”. Nếu thân chủ chưa sẵn sàng trải nghiệm đi sâu vào một cảm
xúc đau thương, nhà trị liệu cần phải thừa nhận điều này và làm việc với thân
chủ trên nỗi sợ thay vì là trên nỗi đau. Khi đó, thân chủ sẽ không kháng cự lại
việc trị liệu và nhà trị liệu không cảm thấy mình đang lội ngược dòng. Khi một
thân chủ chưa sẵn sàng, điều cần thiết là phải làm việc với thân chủ tại ngay
nơi người đó đang đứng hơn là thúc đẩy người đó đi tới nơi họ cần đến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.