Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2017

Sự cộng hưởng trị liệu

Nguyên tác: Farrell R. Silverberg - Therapeutic Resonance
http://www.windhorseguild.org/pdf/jcp/vol_5/Vol5_Therapeutic_Resonance.pdf
Người dịch: NGUYỄN MINH TIẾN

Image result for resonance

Farrell Silverberg là một nhà tâm lý lâm sàng, làm việc tại Philadelphia. Ông được đào tạo tại Viện Phân tâm học Hiện đại (Institute of Modern Psychoanalysis) ở New York và là người Phương Tây đầu tiên theo học về Taopsychotherapy (kết hợp tâm lý trị liệu Tây Phương với Lão Giáo Đông Phương) bởi thầy  Rhee Dong-shik tại Seoul, Hàn Quốc. Hiện ông là nhà phân tâm làm công việc giám sát và huấn luyện tại Trung tâm Phân tâm học Philadelphia, Hoa Kỳ. Bài này được viết vào năm 1988, thể hiện quan điểm phối hợp giữa phân tâm học và thiền học Đông Phương. Khái niệm “cộng hưởng” (resonance) của ông, phần nào đó, cũng có những nét tương đồng với khái niệm “thấu cảm” (empathy) của Carl Rogers - Lời dẫn của người dịch.

Farrell Silverberg

Việc thực hành tâm lý trị liệu là một nghệ thuật chữa lành (healing art) bao gồm sự phát triển hai khả năng của nhà trị liệu. Một là khả năng cộng hưởng (resonate) trong khi đáp ứng với thân chủ. Hai là sự phát triển những kỹ thuật trị liệu nhằm đạt đến sự tinh thông mang tính trực giác (intuitive mastery). Khi những khả năng này vận hành một cách hài hòa, việc trị liệu sẽ đạt đến khả năng cao nhất dẫn đến sự bình phục nơi thân chủ.

Sự chữa lành hay bình phục (healing), trong bài viết này, có ý nghĩa còn hơn cả việc nhận được khả năng nội thị (insight) hoặc sự thay đổi hành vi, mặc dù những việc này thường sẽ xảy ra sau đó. Thuật ngữ này được dùng với ý nghĩa là giúp cho một người bảo tồn được trạng thái lành mạnh và ngụ ý chỉ tiến trình “trao đổi” từ khổ đau đổi lấy sự thanh thản, từ bệnh tật đổi lấy sức khỏe, từ xung đột đổi lấy cảm nhận về sự mạnh mẽ và tính toàn vẹn.

Cộng hưởng trị liệu là phương tiện đạt đến sự bình phục (therapeutic resonance is the vehicle to healing). Cộng hưởng là cách “hiện diện cùng với” (being with) một người khác, biểu hiện sự chấp nhận một cách cơ bản và trải lòng với người ấy. Để cộng hưởng với một ai đó là phải phục vụ như một tấm gương soi (mirror) cho người ấy, và để có thể trở nên tương đồng đến mức bạn có thể cảm nhận được những trải nghiệm của người ấy. Sự cộng hưởng   được dựa trên một thái độ chú tâm trong lặng lẽ, với bản chất không kháng cự và không phê phán. Sự cộng hưởng trị liệu cho phép tiến trình làm việc diễn ra suôn sẻ, việc này được biểu hiện khi thân chủ không tỏ ra phiền hà hoặc khó chịu quá đáng khi tiếp nhận những can thiệp có tính cộng hưởng (resonant interventions). Sự cộng hưởng giữa nhà trị liệu và thân chủ được xác thực khi nhà trị liệu đáp ứng với thân chủ, còn thân chủ thì chấp nhận và đáp ứng trở lại như thể nhất trí với nhà trị liệu.

Sự kháng cự lại với việc cộng hưởng (resistance to resonance) từ phía nhà trị liệu có khuynh hướng trở thành một trở ngại. Vì thế, nhà trị liệu phải tạo ra một “sự thinh lặng bên trong” (inner silence) (Izutsu, 1975, p.3) khi làm việc với từng thân chủ để cho phép sự cộng hưởng với thân chủ ấy có thể trở nên được nhận biết. Izutsu đã quan sát thấy rằng một nghệ sĩ có đẳng cấp cao khi đang vẽ một bức tranh về cây tre gần như đã “ném bản thân mình vào trong cái tinh thần sống động của cây tre cho đến khi ông ta cảm nhận được một sự cộng hưởng kỳ diệu về những nhịp điệu của cây tre bên trong ông ta như thể đồng nhất với nhịp mạch đập của chính mình... Ông ta trở nên chính cây tre ấy” (Izutsu, p.3). Khi một nhà trị liệu mở lòng ra để cộng hưởng với một thân chủ và nhận biết về khả năng xảy ra một sự cộng hưởng như thế, là đang đứng vào một vị thế hoàn thiện để tạo nên một bầu khí mang tính trị liệu. Chẳng hạn như nếu một thân chủ đang nói với một cách thức không biểu cảm, nhà trị liệu bắt đầu cảm thấy trầm lại và thất vọng - cảm nhận ấy hơi bị giảm bớt đi khi thân chủ ngừng lại giữa những câu nói, rồi sau đó nói tiếp - khi ấy, một sự cộng hưởng có thể đang xảy ra. Thân chủ có lẽ đang được phản ảnh bên trong tấm gương soi của nhà trị liệu.

Trong lý thuyết tâm lý học Tây Phương, có thể phát hiện thấy những sự tương đồng trong trải nghiệm về sự cộng hưởng. Sullivan (Mullahy, 1970) lập luận rằng một số hiện tượng có thể xảy ra theo kiểu “một phương thức giao tiếp hoặc như một sự lây lan về mặt cảm xúc (mà những điều này) có lẽ không thể xảy ra thông qua những kênh giác quan thông thường” (p.344). Heimann (Racker, 1968) có nêu về một “mối quan hệ từ tầng thâm sâu chuyển đến hiện diện trên bề mặt dưới hình thức những cảm nhận” (p.128). Spotnitz (1976) đã xem sự lan truyền trạng thái cảm xúc từ thân chủ sang nhà trị liệu như là một sự “cảm ứng về mặt cảm xúc” (emotional induction) (p.25), một tiến trình thường xuyên diễn ra giữa những con người trên bình diện vô thức” (p.25).

Một nhà trị liệu không nhận biết về sự cộng hưởng sẽ vô tình bị nó chi phối. Ví dụ, khi một nhà trị liệu bắt đầu cộng hưởng với trạng thái trầm cảm của một thân chủ, mà không nhận ra rằng mình đang như thế, có thể sẽ rơi vào một sự đáp ứng theo kiểu im lặng và thụ động. Đây là một phản ứng đối với sự cộng hưởng, chứ không phải là chính sự cộng hưởng. Một nhà trị liệu mẫn cảm với những hiệu ứng khó chịu từ một số trạng thái nào đó có thể sẽ vô ý tìm cách né tránh một số tình huống cộng hưởng. Ví dụ, khi nhà trị liệu không thể dung nạp được cảm nhận về sự tuyệt vọng ngay vào lúc cần đến sự cộng hưởng với thân chủ, ông ta có thể sẽ kháng cự lại sự trải nghiệm này. Một tiến trình nếu không sẵn có trong tâm trí có ý thức của nhà trị liệu có thể sẽ đẩy ông ta ra khỏi trạng thái hiện diện cùng với thân chủ. Việc nhà trị liệu “rời khỏi” sự cộng hưởng có thể diễn ra dưới những hình thức như ông ta sẽ nói nhiều hơn để làm giảm bớt sự căng thẳng của chính mình, hoặc tìm cách can thiệp để thay đổi những trải nghiệm nơi thân chủ trở thành những hình thức trải nghiệm dễ dung nạp hơn khi cộng hưởng.

Izutsu (1975) đã trích dẫn một Công án Thiền (koan) như sau:
Có lần, một tăng sinh đã hỏi thiền sư Triều Châu rằng: “Triều Châu là ai?”. Triều Châu đã đáp rằng: “Đông Môn, Tây Môn, Nam Môn, Bắc Môn!”

Cũng tương tự như với Triều Châu, tất cả những cánh cổng của nhà trị liệu đều phải mở ngỏ và tất cả chư khách đều phải được phép vào ra không có ngoại lệ. Nhà trị liệu phải mở lòng đối với tất cả những gì nẩy sinh trong phiên trị liệu. Tất cả những cảm nhận và suy nghĩ của nhà trị liệu có thể là một sự phản ảnh về thân chủ, và nhà trị liệu phải chấp nhận chúng. Yêu thương, trầm uất, hạnh phúc, rối rắm, thất vọng, hụt hẫng, cảm thông, tuyệt vọng, khao khát, nặng đầu, chán chường, cự tuyệt, mong muốn được giúp, thậm chí là một mong muốn khước từ sự trải nghiệm; tất cả phải được phép đi vào, nhưng không phải tất cả đều được làm theo. Việc phát ngôn nên được hạn chế với thời gian và số lượng ngôn từ thích hợp. Thời gian nói, giọng điệu và cách nói được xác định bởi sự kết hợp giữa việc cộng hưởng trị liệu và các yếu tố kỹ thuật.

Một nhà trị liệu phải được huấn luyện theo một cách thức sao cho những phản ứng tự nhiên bắt một số trải nghiệm nào đó phải “dừng lại ở những cánh cổng” phải được rút ngắn thời gian lại khi đang làm việc cùng với thân chủ. Việc này không phải là dễ. Ngay như một thành phố cũng cần đến những tường rào và những cánh cổng để bảo vệ, tâm trí chúng ta cũng thế. Liệu rằng điều này có nghĩa là nhà trị liệu cũng cần phải có khả năng dung nạp những cảm nhận mang tính loạn thần khi làm việc với một người bệnh bị loạn thần, hoặc những cảm nhận toan tính tự sát khi làm việc với một thân chủ tính tự sát? Vâng, đúng thế, nếu đây là những trải nghiệm thực của thân chủ. Không một người bình thường nào tự nguyện trải nghiệm những điều như thế. Vì vậy, những phản ứng mang tính phản xạ của nhà trị liệu nhằm mục đích tự bảo vệ cần phải được tôi luyện vì lợi ích của những thân chủ. Racker (1968) đã mô tả mối nguy về một kiểu đáp ứng có tính phản xạ mà ông gọi là những đáp ứng “mang tính trừng phạt” (tạm dịch từ nguyên văn: “talionic” responses) từ phía nhà trị liệu.

Khi chúng ta tình cờ chạm tay vào một vật nóng, chúng ta sẽ nhanh chóng rút tay lại. Nhưng trong một phiên trị liệu, khi chúng ta cảm thấy bị thôi thúc phải nói ra một điều gì đó, chúng ta phải không làm như thế; phản ứng này phải nhanh chóng được đánh giá, để rồi sau đó, hoặc có thể được nói ra, hoặc có thể được giữ lại và được dung nạp. Cùng với quá trình huấn luyện và thực hành, khoảng thời gian ngưng lại để đánh giá như thế có thể chỉ còn là một phần của một giây và sau cùng trở nên một việc gần như mang tính trực giác.

NHÀ TRỊ LIỆU TRONG HUẤN LUYỆN

Nhà trị liệu và chuyên viên giám sát của anh ta cũng phải tôn trọng những giới hạn của nhà trị liệu trong khả năng dung nạp ấy. Cần có thời gian để đạt đến một tâm trí rộng mở “không có những chướng ngại” (tạm dịch từ nguyên văn: “gatelessness”). Cũng tương tự như trong việc thiền định, việc thực hành và huấn luyện thường xuyên sẽ giúp một người mở rộng dần mức độ nhận biết của mình. Việc áp dụng tâm lý trị liệu với mục đích chữa lành (bình phục) sẽ có thể diễn ra khi nhà trị liệu đạt đến những tố chất như sau:

1. Khả năng cộng hưởng với thân chủ;
2. Khả năng đón nhận vai trò là người phản ảnh lại thân chủ của mình, bất kể việc này gây ra sự băn khoăn và không thoải mái;
3. Khả năng nhận biết được những việc như thế đang diễn ra

Một khi cả ba tiêu chí này được thỏa, phần còn lại sẽ là vấn đề của kỹ thuật và kinh nghiệm. Việc đi sâu vào thực hành trị liệu đòi hỏi sự khổ luyện, và một số quy trình về mặt kỹ thuật có thể mang lại một cấu trúc cho việc học tập và thực hành. Điều quan trọng là phải học được cách giữ kiên nhẫn, biết kiềm chế và nhận biết về bản thân (self awareness) ngay từ những giai đoạn đầu của việc huấn luyện. Cũng như trong thiền định, những khổ luyện cơ bản cần được thực hành đó là ngồi yên, nhận biết và giữ im lặng - bất kể những trải nghiệm về tinh thần và thể xác đang diễn ra như thế nào - cho đến khi việc này có thể làm được một cách tự nhiên. Một khi việc này đã học được, nhà trị liệu có thể thoải mái đi vào công việc.

Việc giám sát và các can thiệp về mặt kỹ thuật có thể tạo nên một chiếc cầu nối tạm thời giữa trải nghiệm của thân chủ và trải nghiệm của nhà trị liệu. Chuyên viên giám sát cần phải cộng hưởng với nhà-trị-liệu-trong-huấn-luyện cũng như với thân chủ của nhà trị liệu. Việc trải nghiệm sự cộng hưởng như thế bởi một chuyên viên giám sát cũng giúp làm tăng khả năng thực hành việc cộng hưởng của chính nhà trị liệu. Nó cho phép anh ta tiếp xúc với những trải nghiệm của chính mình, học cách dung nạp chúng và sau cùng là sẵn lòng đón nhận những trải nghiệm ấy.

Trong khi cộng hưởng với nhà-trị-liệu-trong-huấn-luyện, chuyên viên giám sát có thể cộng hưởng với những khó khăn mà nhà trị liệu gặp phải trong ca làm việc này, cũng như với những trải nghiệm chung của anh ta. Nói chung, việc này có tính trị liệu theo chiều ngược lại nhằm truyền đi một sự cộng hưởng đối với các khó khăn của nhà trị liệu, và vị chuyên viên giám sát khôn ngoan sẽ tự mình kiềm giữ chúng lại (Nguyên văn: Generally, it is countertherapeutic to transmit resonance to the therapist’s difficulties, and the prudent supervisor restrains himself). Kết quả là một sự cộng hưởng khác có thể nẩy sinh và sẽ hữu ích nếu sự cộng hưởng này được bày tỏ với nhà trị liệu. (Sự cộng hưởng thường được truyền đi bằng lời nói, mặc dù đôi lúc, chỉ cần có sự cộng hưởng thôi thì cũng đủ). Một ví dụ về sự cộng hưởng giữa chuyên viên giám sát và nhà trị liệu sẽ được mô tả dưới đây:

Một nhà-trị-liệu-trong-huấn-luyện đến gặp tôi (tác giả) trong phiên giám sát về một trường hợp đã khiến cho cô ấy rất lo lắng. Bệnh nhân của cô ấy cảm thấy cuộc sống xung quanh anh ta càng ngày càng như bị vỡ vụn ra và anh ta rất hoảng sợ khi bị một cơn loạn thần ngắn (psychotic break). Nhà trị liệu cũng đã đáp ứng lại với anh ta bằng một sự sợ hãi tương tự, rồi cô ấy cố gắng hết sức để an ủi, xoa dịu, tìm cách sửa chữa và khảo sát vấn đề của anh ta. Những cố gắng của cô đã không hiệu quả; người bệnh vẫn không thể dễ dàng nói chuyện với cô và tiếp tục bị tràn ngập bởi những cảm xúc của mình.

Trong khi cộng hưởng với nhà trị liệu, tôi (tác giả) cũng đã trải nghiệm một nỗi lo sợ về khả năng bệnh nhân này sẽ rơi vào tình trạng thoái triển do loạn thần (psychotic deterioration) và về những hệ quả mà việc này gây nên đối với người đang được tôi làm giám sát. Sự cộng hưởng này có lẽ cũng phản ảnh nỗi lo sợ của bệnh nhân về việc anh ta ngày càng mất dần khả năng kiểm soát bản thân. Tôi đã cảm nhận được một sự cộng hưởng thứ hai, một mong muốn phải làm cho nhà trị liệu được vững lòng và được xoa dịu, điều mà tôi cho rằng đã phản ảnh cả việc cô ấy muốn xoa dịu bệnh nhân lẫn việc bệnh nhân mong được cô ấy giúp đỡ. Rõ ràng cả hai người đều đang đấu tranh với những trải nghiệm của họ và chìm ngày càng sâu hơn vào trong rối rắm. Thêm vào đó, nhà trị liệu này lâu nay đã có khuynh hướng tự ngờ vực về bản thân mình. Cô ấy sẽ rất khổ sở nếu lúc nào đó cảm thấy mình dường như bị thất bại. Cô ấy cũng cần hỗ trợ để tăng thêm lòng tự tin để tiếp tục con đường phát triển của chính bản thân cô cũng như trong việc giúp đỡ cho bệnh nhân của cô.

Tôi đã quyết định giữ lại cho riêng mình sự cộng hưởng ban đầu gây ra sự lo sợ nơi chính tôi để không gây  bất an cho cả nhà trị liệu lẫn bệnh nhân thêm nữa, và chọn lựa cách đáp ứng bằng sự cộng hưởng có tính xoa dịu một khi nó đạt đủ cường độ. Tôi nhẹ nhàng nói với nhà trị liệu, đặt cho cô một câu hỏi để truyền đi sự cộng hưởng của tôi, và biểu thị lòng tin của tôi đối với cô, và vì thế đã làm cho tiến trình trị liệu trở nên bớt áp lực hơn. “Đến nay, bệnh nhân đã theo đuổi việc trị liệu với cô trong một thời gian. Điều gì khiến cô nghĩ rằng những gì cô đã làm trước đây sẽ không làm xoay chuyển được tình thế ngay khi anh ấy trở nên sẵn sàng?” Tôi giúp cô ấy vững lòng về những khó khăn trong ca làm việc và bày tỏ sự chia sẻ với gánh nặng công việc của cô ấy. Cô đã tỏ ra bớt lo lắng sau những can thiệp này và nói: “Đã bớt cảm giác giống như phải chạy đua với lửa rồi!”.

Tuần lễ sau đó, nhà trị liệu đã báo lại rằng sau vài phút bắt đầu của phiên trị liệu, đã có một sự thay đổi rõ nơi bệnh nhân của cô. Bệnh nhân trở nên bình tĩnh hơn, nói năng thoải mái hơn trước đó và thông báo rằng nỗi sợ hãi đã thực sự im tiếng. Tuy nhiên, nhà trị liệu thì lại báo rằng cô đã gần như chẳng thể làm được gì khác hơn ngoài việc bớt lo sợ hơn khi đi đến phiên trị liệu.

Về bản chất, cuộc giám sát trên liên quan đến việc nó đã “dung chứa” sự sợ hãi của cả nhà trị liệu lẫn của bệnh nhân, làm mẫu cho nhà trị liệu về khả năng kiềm giữ một cách toàn tâm (mindful restraint), cho phép xảy ra một sự chuyển tiếp về sự cộng hưởng, truyền đi sự cộng hưởng thông qua một giọng nói và sự bàn luận mang tính chất xoa dịu, và vì thế tạo nên chiếc cầu nối giúp nhà trị liệu xoa dịu bệnh nhân. Cuộc giám sát đã giúp thay đổi nhà trị liệu, và bệnh nhân đã đáp ứng lại điều này một cách gần như tức thời - chắc chắn rằng trải nghiệm đó chính là sự cộng hưởng mang tính trị liệu.

Việc sử dụng khả năng cộng hưởng không thể được học theo kiểu “học để biết” (intellectual manner). Nó phải được học bằng cách trải nghiệm thông qua việc thực hành có giám sát. Trungpa (1984) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huấn luyện. Ông cho ví dụ về một tay đua đã có thể “lái xe với tốc độ 200 dặm một giờ trên đường đua nhờ được huấn luyện. Anh ta biết rõ những giới hạn của động cơ, bánh lái và các lốp xe. Anh ta cũng biết về khối lượng xe, tình trạng đường và điều kiện thời tiết. Vì thế anh ta có thể lái xe nhanh mà không trở thành hành vi tự sát. Thay vì thế, nó trở thành một vũ khúc. Nhưng nếu bạn để bản thân làm điều đó trước khi hoàn tất việc gắn mình với sự khổ luyện, việc đó hoàn toàn rất nguy hiểm.” (p.55-56)

Trungpa (1984), khi bàn đến sự thư giãn trong khi khổ luyện, đã nêu rõ “Đó là một sự thư giãn dựa trên sự hài hòa, đồng điệu với môi trường” (p.56). Trong trường hợp thực hành trị liệu, các can thiệp được khơi nguồn từ việc huấn luyện, khổ luyện, từ những kiến thức mà nhà trị liệu có trong tâm trí của mình, cũng như từ khả năng cộng hưởng với những gì bên trong tâm trí của thân chủ.

KỸ THUẬT

Chỉ riêng sự cộng hưởng không đủ để chữa lành cho một thân chủ. Thêm vào đó, một nhà trị liệu có kỹ năng cũng tham gia vào những hoạt động mang tính chiến lược (strategic activities) nẩy sinh từ trong “lãnh địa” của sự cộng hưởng. Những hoạt động như thế có thể được thấy trong ba thể loại sau đây: im lặng trầm tư (contemplative silence), những can thiệp theo kiểu “hiện diện cùng với” (“being-with” interventions) và những can thiệp theo phép đồng căn (homeopathic interventions). Điều này thoạt tiên nghe có vẻ như trái ngược khi sử dụng sự tính chất mở lòng và phi mục đích của sự cộng hưởng nhưng lại theo một kiểu thức mang tính chiến lược (Từ “strategic” ở đây hàm nghĩa “có toan tính” - N.D.). Tuy nhiên, một nhà trị liệu có kỹ năng, trong cùng một lúc, có thể vừa hành xử một cách tự nhiên vừa theo kiểu có toan tính.

Im lặng trầm tư

Vai trò của sự im lặng trong tiến trình trị liệu thường bị xem nhẹ. Như những gì hiện đang được thực hành, việc trị liệu thường trở thành một tiến trình giáo dục thay vì là một quá trình bình phục. Nhiều thân chủ tìm đến trị liệu với sự hiểu nhầm rằng nếu họ tìm ra chuyện gì họ làm đã gây ra nỗi đau của họ và tại sao họ lại làm thế thì khi ấy họ sẽ thoát khỏi khổ đau một cách diệu kỳ. Theo ý kiến của tôi, điều này không luôn luôn đúng.

Điều quan trọng đối với nhà trị liệu là phải có được sự nội thị (insight) vào trong thân chủ sao cho những trải nghiệm về sự cộng hưởng với thân chủ có thể được hiểu trong bối cảnh có sự hiểu biết nhiều hơn về thân chủ. Nhưng điều quan trọng không kém đó là phần lớn công việc này lại xảy ra bên trong nhà trị liệu vào những lúc có sự im lặng trầm tư trong phiên trị liệu.

Sự im lặng trầm tư là một quá trình lắng nghe một cách lặng lẽ, có sự nhận biết về sự cộng hưởng với thân chủ, cùng hiện diện với những trải nghiệm của thân chủ trong từng thời khắc (being with his moment-to-moment experience), duy trì sự nhận thức về lịch sử cũng như cuộc sống hiện tại của thân chủ và sẵn sàng thực hiện những can thiệp (tức là sẵn sàng nói chuyện với thân chủ). Sự can thiệp xảy ra vào thời điểm mà thân chủ cần đến nó hoặc khi tất cả những thành tố của phiên trị liệu đã tạo một hướng mở cho sự can thiệp kế tiếp. Mặt khác, cũng cần phải biết giới hạn lại các hoạt động.

Trong việc thực hành tọa thiền (zazen), việc giới hạn hoạt động đến mức tối thiểu (Suzuki, 1970, p.75) là cách thức hiện diện ngay trong khoảnh khắc hiện tại và thể hiện khoảnh khắc ấy về mặt nội tâm. Trong khi thực hành sự im lặng trầm tư, việc nhà trị liệu hạn chế các hoạt động sẽ dẫn đến một sự cộng hưởng mà từ đó giúp khơi nguồn cho khả năng thực hiện những hoạt động chữa trị.

Sự im lặng trầm tư cũng có thể là một bài tập giúp nhà trị liệu khổ luyện khi có sự xuất hiện của một trải nghiệm gây nhiều lo lắng. Đó cũng chính là những khoảnh khắc mà việc quan trọng nhất phải làm là dung nạp và điều nghiên trong thinh lặng. Như Lief (1983) đã nêu, khi chúng ta cho phép mình cảm nghiệm về sự không thoải mái, thì một sự chấp nhận và nội thị sẽ được hình thành” (p.11). Khi việc thực hành được lập đi lập lại, nhà trị liệu sẽ phát triển được khả năng hành xử theo một phương thức có tính chữa trị, bất kể bầu khí cảm xúc diễn ra như thế nào trong phiên trị liệu. Bằng cách đó, nhà trị liệu “có thể vượt qua sông mà không bị rơi vào nhiễu loạn” (Trungpa, 1973, p.173).

Để ví dụ, tôi xin nói về một phiên trị liệu với một bệnh nhân mà tôi đã làm việc trong một thời gian, thình lình tôi chịu một sự thôi thúc mãnh liệt phải trao tặng gì đó cho anh ta. Tôi nghĩ rằng đây là một sự cộng hưởng, và có thể đã phản ảnh một nhu cầu nào đó nơi thân chủ của tôi. Rồi kế tiếp tôi nhớ lại rằng có một người bạn của tôi đã làm cho tôi một món quà nhỏ là một bưu thiếp bằng tranh ghép gỗ kiểu Nhật mà tôi vẫn đang mang theo và đặt trong quyển sổ ghi lịch làm việc. Tự nhiên tôi có ước muốn trao tặng tấm bưu thiếp ấy cho thân chủ của tôi. Khi áp dụng cách im lặng trầm tư, tôi kiềm giữ lại ý định giải bày và thực hiện việc này, điều nghiên nó và làm nó mạnh lên trong trải nghiệm của tôi. Vào phiên trị liệu kế tiếp với thân chủ này, những trải nghiệm nhiệt tình và mong muốn trao tặng chiếc bưu thiếp thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Trong khi điều nghiên lặng lẽ, tôi nhận ra rằng không có chỉ báo nào từ phía thân chủ của tôi cũng như không có yếu tố nào trong phiên trị liệu tạo lối mở cho việc tặng một món quà như thế. Một lần nữa, tôi lại kiềm giữ ý định. Khi thân chủ bước vào phiên trị liệu kế tiếp, anh ta cầm đưa cho tôi một mảnh giấy thông cuộn tròn lại và cho tôi biết đây là một món quà mà anh muốn tặng tôi để bày tỏ lòng biết ơn. Tôi mở tờ giấy ra và thấy trong đó là một bản in từ tranh ghép gỗ.

Hồi tưởng lại, tôi thấy rõ ngay rằng cảm nghĩ muốn tặng tấm bưu thiếp bằng tranh ghép gỗ của tôi đã cộng hưởng với việc thân chủ cũng muốn tặng quà cho tôi. Bằng cách sử dụng sự im lặng trầm tư và đơn giản là dung nạp trải nghiệm của chính mình cho đến khi ý nghĩa của nó trở nên rõ ràng, tôi đã giúp thân chủ đi dần theo lộ trình mà anh ta muốn thực hiện và mở ra con đường trị liệu theo cách mà anh ta cần. Kết quả của việc cộng hưởng trong thinh lặng có thể là dừng lại hoặc thực hiện một can thiệp. Trong tình huống trên, việc can thiệp đã được hoãn lại.

Tuy nhiên, có những lúc việc im lặng có thể gây hủy hoại cho tiến trình trị liệu. Trong những tình huống ấy, việc im lặng đã không đồng điệu với thân chủ và không thực sự là im lặng trầm tư. Một số thân chủ đòi hỏi nhà trị liệu nói nhiều. Tương tự, nhiều nhà trị liệu trong  giai đoạn ban đầu được huấn luyện đôi khi cũng cần nói để thanh lọc bớt những cảm nhận không thoải mái nhằm giúp họ tránh khỏi sự cộng hưởng với thân chủ. Sau khi thực hiện sự thanh lọc này, họ có thể trở lại với việc hiện diện cùng thân chủ.

Thông qua việc thực hành thiền định đều đặn, trạng thái tâm trí được nhận thức sẽ đến như kết quả của việc chỉ cần ngồi, theo dõi hơi thở và chú tâm, ở tư thế đúng, lập đi lập lại. Khi trạng thái này trở nên tự nhiên hơn, sự nhận biết và trải lòng sẽ có thể được khởi động cả trong những sinh hoạt của cuộc sống thường ngày. Tương tự như vậy, lập đi lập lại việc thực hành sự cộng hưởng trị liệu có thể được xem như con đường để nhà trị liệu đào sâu khả năng cộng hưởng với người khác và xa hơn có thể hành xử theo một cách thức có tính trị liệu với nhiều kiểu thân chủ, trong nhiều bầu khí trị liệu khác nhau.

Các can thiệp theo kiểu “cùng hiện diện với”

Việc làm quan trọng nhất của nhà trị liệu là thực hiện những can thiệp nhằm tạo lập nơi thân chủ một cảm quan về việc mình hoàn toàn được hiểu - một trạng thái hòa hợp nhất thời với nhà trị liệu. Những can thiệp như thế giúp thân chủ nhận ra rằng anh ta không đau khổ một mình và bị bỏ mặc, đồng thời cũng tạo cơ hội cho việc làm giảm bớt tính phòng vệ. Do bởi thân chủ là những người hay do dự, dễ nản chí, yếu đuối và bị cô lập, loại can thiệp này sẽ có hiệu quả theo thời gian như là một sự truyền lực hay tiếp sức (transfusion). Nó giúp củng cố vị thế bản ngã (selfhood) của thân chủ, từ đó chuyển dần thành sức mạnh ý chí của anh ta. Những can thiệp này có thể là một giọng nói hoặc một thái độ được khơi nguồn từ sự cộng hưởng của nhà trị liệu; cũng có thể mang hình thức là đứng về phía thân chủ hoặc thậm chí dùng lời lẽ để công kích những người mà thân chủ xem là đã gây hại cho mình [Đây là quan điểm riêng của tác giả Farrell Silverberg. Bạn đọc không nhất thiết phải đồng tình - Chú thích của người dịch]; chúng cũng có thể có hình thức là sự xoa dịu, đoan chắc, phản ảnh lại hoặc ủng hộ quan điểm của thân chủ.

Một ví dụ cho những can thiệp theo kiểu cùng hiện diện liên quan đến một phiên trị liệu của tôi với một thân chủ, khi cô này vừa bị mất đứa con trông đợi vào thời điểm tháng thứ 8 của thai kỳ. Cô đã đến phiên trị liệu trong vẻ đau khổ cùng cực. Khi nghe cô kể chi tiết về sự cố sẩy thai, xen lẫn với những chi tiết về việc hai vợ chồng cô chuẩn bị chào đón sự ra đời của đứa bé, tôi đã cộng hưởng với nỗi mất mát sâu sắc của cô, với nỗi cô đơn và đau khổ của cô. Cô khóc trong uất nghẹn, nước mắt ràn rụa trên gương mặt, không chút thuyên giảm. Tôi cũng không thể cầm giữ được nước mắt và ngỏ lời chia sẻ nỗi khổ tâm và đồng cảm bắt nguồn từ sự cộng hưởng mạnh mẽ của tôi. Đáp lại, người nữ thân chủ thư giãn hơn một chút, thổn thức một cách nhẹ nhàng hơn, sâu lắng hơn trong một lúc.

Một ví dụ khác cho sự can thiệp theo kiểu cùng hiện diện là trong phiên trị liệu tôi làm việc với một người đàn ông, người đã dành cả đời như một “kẻ chịu tội cho gia đình” (family scapegoat) mà sau cùng đã cảm thấy mình hoàn toàn bị thua thiệt và bị gia đình khước từ. Ông có vẻ kiệt quệ, mất hết sức sống, ông đã từng treo cổ và giọng ông rất khó nói đủ lớn để có thể nghe được. Các con ông, đang cùng sống với người vợ cũ, mới đây đã từ chối thăm viếng và gọi điện cho ông; mẹ của ông cũng mới vừa qua đời và đến phút lâm chung vẫn còn than phiền về ông; những thành viên trong gia đình đã phàn nàn về việc cùng đi với ông trên chiếc xe tang; và cha ông đã cắt đứt liên lạc với ông ngay sau đám tang của mẹ. Mặc dù thân chủ trình bày trong vẻ yếu ớt, nhưng tôi lại trải nghiệm một sự xúc phạm và phẫn nộ đối với sự vô cảm của gia đình ông ấy và tôi nghĩ rằng đây là sự cộng hưởng với một phần đang được ẩn giấu bên trong thân chủ. Tôi bắt đầu nói xen vào những lời bình tiêu cực về gia đình của ông ta [Đây là cách làm riêng của tác giả Farrell Silverberg. Bạn đọc không nhất thiết phải đồng tình - Chú thích của người dịch], cho phép sự giận dữ mang tính cộng hưởng của tôi được tuôn ra qua lời nói: “Họ nói với anh như thế tại đám tang sao?”, “Họ đối xử với anh như rác rưởi à!”, “Thật là nhảm nhí hết sức!”... Thân chủ bắt đầu có vẻ dần chuyển trạng thái từ thẫn thờ trở nên có sinh khí hơn và bắt đầu biểu hiện sự tức giận của mình. Ông ta nện mạnh nắm tay xuống ghế khi nói và kết thúc phiên trị liệu một cách quyết tâm “Tôi sẽ không để cho họ làm tôi gục ngã!”. Việc thân chủ như được tiếp thêm sinh lực cho thấy rằng sự cộng hưởng đã đạt đến mức căng đầy và thân chủ giờ đã cộng hưởng được những gì nhà trị liệu truyền sang.

Sự cộng hưởng của nhà trị liệu đối với tình trạng của thân chủ không hẳn có nghĩa là thân chủ hiểu được tình trạng của bản thân hoặc hiểu được sự cộng hưởng của nhà trị liệu. Thân chủ có thể ý thức hoặc không ý thức về những hiện tượng này. Để sự bình phục có thể xảy ra, không cần thân chủ phải ý thức được về những tình trạng này, nhưng nhà trị liệu thì phải ý thức được chúng.

Dĩ độc trị độc: Phép đồng căn

Izutsu (1975) dẫn ra hành động của một thiền sư khi đưa ra cho các môn đồ một câu hỏi không thể trả lời như thể một “giả nan đề” (pseudo-problem). Việc phản ảnh về một vấn đề như thế có thể gây ra cảm giác hơi khó chịu, cũng như sự phản ảnh bằng cách trả lời của vị thiền sư đối với những “câu hỏi không thật sự là câu hỏi” (pseudo-questions) của những môn đồ cũng có thể không lấy gì làm là dễ chịu. Izutsu dẫn ra việc các thiền sư thường đáp ứng lại với những câu hỏi như thế bằng những kiểu đáp ứng trông có vẻ vô nghĩa và mơ hồ, (chẳng hạn “một cú gõ mạnh bằng một chiếc que, một cú hích, một cái vỗ lên mặt, hoặc một tiếng la...”, p.12). Izutsu xem cách làm này là “dĩ độc trị độc” (p.10). Những đáp ứng như thế có khuynh hướng động viên người môn sinh cố gắng hơn để hiểu và làm việc với tinh thần mạnh mẽ hơn.

Trong tâm lý trị liệu, những đáp ứng như thế đối với thân chủ là hoàn toàn không thích hợp. Tuy nhiên, vẫn có thể sử dụng một đáp ứng bằng lời nói rất nhẹ nhàng có giá trị tương đương với việc làm trên nhằm huy động những nguồn lực nơi thân chủ. Theo Lucas (1986), “mặc dù sự bình phục có thể diễn ra mà không cần sử dụng đến những kích thích hơi khó chịu này, nhưng thường nó không diễn ra nhanh”.

Một thầy thuốc theo phép đồng căn có thể sử dụng một loại độc tố với liều lượng nhỏ như một phương thuốc cho bệnh nhân sử dụng để chữa những triệu chứng đang gây khổ sở cho họ. Để kích thích sự bình phục, những độc tố được chọn và pha rất loãng để sử dụng  chính là những độc tố mà bản thân chúng sẽ gây ra những triệu chứng tương tự như những triệu chứng bệnh đang làm khổ bệnh nhân (Moskowitz, 1980). Một phương thức như thế cũng có thể áp dụng cho việc trị liệu những thân chủ có các phản ứng tự hủy hoại khi tiếp xúc với những “độc tố” đặc hiệu về cảm xúc hoặc trong những mối quan hệ.

Khi nhân cách hoặc tinh thần của một người bị tổn thương, một số những nhược điểm sẽ lộ rõ. Do sự tổn hại đã diễn ra, một số loại kích thích có thể tấn công những nhược điểm này và gây tàn phá bên trong con người của đương sự vì người đó không có khả năng tự bảo vệ chống lại chúng. Chẳng hạn khi một thân chủ bị tổn thương đến mức không thể tự bảo vệ chống lại sự lạm dụng về cảm xúc bởi người khác, có thể đáp ứng lại sự ngược đãi kia bằng những phản ứng tự làm hại (self-abuse), trầm cảm, lo âu hoặc ý tưởng tự sát.

Nhà trị liệu dùng kinh nghiệm của mình để “bào chế ra một phương thuốc” để được sử dụng thông qua một can thiệp đồng căn (homeopathic intervention). Khi nhà trị liệu cộng hưởng với sự tiêu cực nơi thân chủ, một can thiệp đồng căn có thể tạo nên sự cải thiện mang tính trị liệu. Tính tiêu cực có thể được cảm nhận dưới nhiều hình thức, bao gồm tự căm ghét bản thân (do yếu kém, thất bại), tức giận những người đã gây hại cho thân chủ, hoặc cảm giác hụt hẫng về hành vi hoặc sự tự hủy hoại của chính mình. Sự tiêu cực được cộng hưởng cũng có thể được cảm nhận đối với một hoàn cảnh gây stress hoặc một tiến trình bệnh lý mà thân chủ đang trải qua. Khi nhà trị liệu đã được khổ luyện cách dung chứa những cảm nhận tiêu cực, ông ấy có thể áp dụng được cách can thiệp đồng căn. (Trong giai đoạn đầu trị liệu, việc này không được khuyến khích, nhưng sau khi thân chủ đã trở nên mạnh mẽ hơn, bước đi này có thể được xem xét).

Cũng giống như phép đồng căn trong y khoa [thường được dịch là phép “vi lượng đồng căn” - N.D.], cường độ của sự cộng hưởng cũng sẽ được “pha loãng” thành những liều lượng rất nhỏ và được “bao bọc” trong một can thiệp có tính gián tiếp. Bằng cách “gián tiếp”, tôi đang chuyển giao một cách thức can thiệp tế vi và có cường độ nhẹ đến mức thân chủ không hề nhận biết được về tình trạng bị “nhiễm độc nhẹ” này [Các câu từ và khái niệm được sử dụng ở đây theo cách riêng của Farrell Silverberg. Bạn đọc cần thận trọng tìm hiểu kỹ - Chú thích của người dịch]. Việc can thiệp đồng căn có thể thực hiện dưới hình thức một giọng nói hơi chua chát, một cách hỏi chuyện hoặc thách thức tinh tế về vị thế của thân chủ, sử dụng quan điểm (với mức độ tối thiểu) của chính những người có quan điểm đối nghịch với thân chủ, hoặc có thể một phần đồng tình với sự tự chỉ trích bản thân của thân chủ. Có một sự tương đồng trong tâm lý trị liệu Phương Tây đó là khái niệm của Spotnitz về sự “miễn nhiễm về mặt cảm xúc” (emotional immunization) (1976, p.50) khi mà thân chủ được cho “những mũi tiêm bằng lời về những cảm xúc mà thân chủ đây gây nên nơi nhà phân tâm”. Các can thiệp đồng căn có thể kích thích một thân chủ lấy lại sức lực và đấu tranh cho sự lành mạnh của mình, và sau cùng trở nên ít phụ thuộc vào sự tiêu cực nữa.

Ví dụ, hãy xem xét trường hợp một thân chủ có tình trạng rất thụ động và trầm uất. Cô ấy cứ để mặc cho người khác lợi dụng cô mà không hề phản đối gì, trong khi vẫn tự hào về khả năng cô vẫn “am hiểu” và ân cần với người khác, bất kể họ đối xử với cô như thế nào. Trong những phiên trị liệu với thân chủ này, tôi đã trải nghiệm một sự cộng hưởng phức tạp mà đồng thời vừa có sự ngưỡng mộ những khả năng tự kiềm chế và nguyên tắc sống của thân chủ, vừa có sự tức giận và muốn nổi loạn vì những ngược đãi người khác làm với cô. Tôi quyết định kiềm giữ lại không chuyển giao sự tức giận đến người thân chủ mong manh dễ tổn thương này, và cho phép khơi nguồn lòng ngưỡng mộ của tôi đối với khả năng kiềm chế của cô được thể hiện thông qua cách can thiệp của tôi. Tôi chia sẻ với cô một chút trải nghiệm góp phần vào sự kiềm chế của cô và chút lời khen ngợi cô về những gì cô nghĩ cho người khác. Cô đã đáp ứng lại bằng một chất giọng phản đối, “Nhưng tôi đã quá mệt mỏi khi phải làm một vị thánh trong đời của mình!”. Những can thiệp tiếp tục theo hướng này đã được tiếp tục để ấp ủ dần, làm lớn dần khả năng phản đối và kháng cự nơi thân chủ ấy khi việc trị liệu tiến triển. (Đây cũng là một ví dụ minh họa cho việc chuyển giao một phần của sự cộng hưởng phức tạp để thân chủ trải nghiệm, rồi sau đó khơi thông phần còn lại một cách đầy đủ hơn). Khi thân chủ trở nên mạnh mẽ hơn và dễ bộc lộ hơn, các can thiệp của tôi dần dần bắt đầu được bao gồm những liều lượng rất nhỏ của những cộng hưởng về sự tức giận mà tôi đã trải nghiệm, và tôi cũng bắt đầu sử dụng một chất giọng chua chát hơn. Thân chủ, được tăng dần khả năng miễn nhiễm, cũng đã cộng hưởng ngược lại với những phản kháng giận dữ của tôi và những “chỉnh sửa” từ quan điểm của tôi.
Khi thân chủ học được cách tự bảo vệ chính mình, họ sẽ bắt đầu thể hiện sự thù hận mà đã có lần từng bị hướng đến việc chống lại bản thân. Ở đây, nhà trị liệu cần được khổ luyện, và phải có khả năng dung nạp được tính thù hận (cũng như những phản ứng của bản thân đối với sự thù hận), mà không kháng cự lại hoặc trở nên tự phòng vệ cho chính mình. Nhà trị liệu phải cho phép bản thân mình được sử dụng cho mục đích này, rất giống như cách thức mà Trungpa (1973) mô tả về sự hành đạo của một vị Bồ Tát. Một người như thế đã phải học được cách “tin vào những dữ kiện thực tế mà bạn không cần đến để làm yên ổn phần đất đứng của bạn” (Trungpa, 1973, p.100). Việc kháng cự lại những kiểu biểu hiện ban đầu từ thân chủ sẽ khiến nhà trị liệu chuyển ngược lại cho thân chủ sự hung hăng của mình. Những biểu hiện như thế từ thân chủ có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là khi có khả năng họ tự sát hoặc khi có dấu chỉ cho thấy họ có những diễn tiến xấu về cơ thể, chẳng hạn như bệnh ung thư.

Việc nhà trị liệu chấp nhận tính tiêu cực là một khía cạnh quan trọng trong việc hỗ trợ cho thân chủ chuyển hướng về sự lành mạnh. Khi bàn luận về vai trò của những vị y sư Tây Tạng, Donden (1983) cũng thể hiện một nhãn quan tương tự khi nêu ra rằng vị thầy chữa (healer) đã “dự liệu để tất cả đêm đen, tất cả bóng tối, tất cả những tật bệnh, sẽ được hấp thụ vào người bệnh, và tất cả những tia sáng, sức khỏe và sự lành mạnh, cũng sẽ được chiếu soi đến người bệnh” (p.26). Để thúc đẩy việc bình phục, chúng ta cũng cần sẵn lòng để thực hành việc “trao đổi giữa ta và tha nhân” theo cách thức như thế này (Kongtrul, 1987, p.6).

SỰ LÀNH MẠNH, LÒNG TRẮC ẨN VÀ KỸ NĂNG

Việc sử dụng sự cộng hưởng như phương tiện đạt đến sự bình phục có cơ sở dựa trên những trải nghiệm lập đi lập lại rằng thân chủ sẽ tự nhiên đi theo một lộ trình nội tại (intrinsic path) hướng đến sự lành mạnh nếu họ được mang lại một bầu khí cho phép những sự dịch chuyển như thế. Thân chủ biết được lộ trình lành mạnh này nhưng có lẽ họ đã không thể theo đuổi được. Với những biểu hiện thế này thế khác, tất cả những thân chủ đến với trị liệu đều thể hiện tình thế lưỡng nan này, hoặc thể hiện những triệu chứng như thể là vấn đề của họ.

Thông qua tiến trình bình phục, thân chủ trở nên quen thuộc trở lại với những phẩm chất mà bấy lâu có lẽ đã bị ẩn giấu hoặc bị xem nhẹ. Sự hồi phục những phẩm chất này cho phép thân chủ theo đuổi lại lộ trình và những mục đích sống của mình. Khi chúng ta hồi phục lại những phẩm chất, chúng ta sẽ thấy chúng như đã có sẵn rồi. Như Ryokan (1977) đã nêu, “Nếu chúng ta đạt được điều gì đó, thì từ đầu nó vẫn có đó. Nếu chúng ta mất đi thứ gì đó, nó chỉ bị ẩn giấu đó đây thôi” (p.48). Có những phẩm chất bị chôn vùi trong nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, bởi nhiều kiểu tổn thương khác nhau, và một số lại chẳng bao giờ có cơ hội để phát triển đầy đủ trước khi chúng bị ngăn trở hoặc bị tổn thương.  Sự tái hiện và củng cố những năng lực này sẽ giúp thân chủ một lần nữa cảm nhận được tính toàn vẹn của bản thân.

Công việc chính của thân chủ khi đến phiên trị liệu (cũng như của nhà trị liệu khi đến phiên giám sát) là hãy là chính mình, thành thật và trải lòng nói ra những gì đang diễn ra bên trong tâm trí - với khả năng tốt nhất vào mỗi lúc. Khi nhà trị liệu phải thực hành việc cộng hưởng với chính mình ngày qua ngày, thân chủ cũng dần dần trở nên là chính mình và mở lòng nói chuyện một cách mạch lạc hơn. Theo Lucas (1986), việc tạo cho thân chủ một “môi trường có tính đồng điệu và thân thuộc sẽ giúp cho sự tăng trưởng diễn ra một cách lành mạnh và chắc chắn”.

Một nhà trị liệu lành nghề cần tập trung chú tâm vào những trải nghiệm của chính mình về sự cộng hưởng, lưu ý đến những lúc mình bị xao lãng và rồi quay trở lại cộng hưởng với thân chủ. Ở đây chúng ta không phải nói rằng những điều như lịch sử bản thân, các mô hình, những yếu tố động năng, lộ trình cá nhân, những sự kiện trong đời và yếu tố văn hóa của thân chủ là không quan trọng. Những yếu tố này, hiển nhiên, cũng vô cùng quan trọng. Chúng tự nhiên đi vào nội dung thân chủ trình bày về bản thân họ, cũng như những yếu tố tương tự cũng sẽ đi vào sự cộng hưởng của nhà trị liệu đối với thân chủ. Trungpa (1987) nhấn mạnh vào sự chú tâm đến các trải nghiệm trong trị liệu và xem việc này quan trọng hơn các yếu tố lý thuyết và lịch sử  vốn được cho là thích hợp với thân chủ:

“Quá khứ thì đã qua, tương lai thì chưa đến, vì thế chúng ta làm việc với những gì đang ở đây: hoàn cảnh hiện tại. Việc này giúp chúng ta không cần phân loại hoặc lý thuyết hóa. Một tình huống sống động, chân phương luôn luôn xảy ra vào mọi lúc, ngay tại hiện tiền. Phương pháp tiếp cận mang tính không phân loại này (noncategorizing approach) bắt nguồn từ việc hiện diện đầy đủ tại lúc này, thay vì cố gắng dõi theo những sự kiện nào đó trong quá khứ. Chúng ta không cần phải nhìn lùi về quá khứ để xem xét việc chúng ta hoặc những người khác đã được hình thành nên từ đâu. Mọi thứ tự chúng lên tiếng, ngay tại đây và lúc này” (p.13).

Việc thực hành sự cộng hưởng là cách thức giúp cho sự bình phục mà điều này có thể phát triển nếu chúng ta sẵn lòng trải nghiệm sự đau khổ của một người khác trong khi đang giúp đỡ người đó trở nên tốt hơn; đó cũng là sự biểu hiện của lòng trắc ẩn. Như Donden (1983) đã nêu, “sự bình phục xảy ra khi nhà trị liệu xuất phát từ động cơ cơ bản là đúng đắn, đó là tình yêu thương và lòng trắc ẩn” (p.22). Thực hành sự cộng hưởng sẽ giúp phát triển tính nhẫn nại và lòng khoan dung nơi nhà trị liệu, và việc giám sát giúp tạo nền tảng vững chắc để thực hiện việc này.


Những nhà trị liệu bị lôi cuốn vào nghề nghiệp của mình bởi khả năng cảm nhận đối với người khác, bởi thế, họ vốn cũng thường có một số trải nghiệm nào đó về sự cộng hưởng.  Việc thực hành trị liệu, nếu chỉ dựa trên huấn luyện “học để biết”, sẽ không thể nuôi dưỡng được khả năng này và cũng không thể truyền dạy lại khả năng này để được áp dụng. Thực hành sự cộng hưởng là cách làm trong đó kỹ năng và lòng trắc ẩn trở nên lồng ghép vào nhau, và việc vun trồng kiểu “trắc ẩn có kỹ năng” (skilled compassion) này chính là lộ trình để trở thành một người chữa trị (healer).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.