Nguyên tác: Farrell R. Silverberg
- Therapeutic Resonance
http://www.windhorseguild.org/pdf/jcp/vol_5/Vol5_Therapeutic_Resonance.pdf
Người dịch: NGUYỄN MINH TIẾN

Farrell Silverberg là một nhà tâm
lý lâm sàng, làm việc tại Philadelphia. Ông được đào tạo tại Viện Phân tâm học
Hiện đại (Institute of Modern Psychoanalysis) ở New York và là người Phương Tây
đầu tiên theo học về Taopsychotherapy (kết hợp tâm lý trị liệu Tây Phương với
Lão Giáo Đông Phương) bởi thầy Rhee
Dong-shik tại Seoul, Hàn Quốc. Hiện ông là nhà phân tâm làm công việc giám sát
và huấn luyện tại Trung tâm Phân tâm học Philadelphia, Hoa Kỳ. Bài này được viết
vào năm 1988, thể hiện quan điểm phối hợp giữa phân tâm học và thiền học Đông
Phương. Khái niệm “cộng hưởng” (resonance) của ông, phần nào đó, cũng có những
nét tương đồng với khái niệm “thấu cảm” (empathy) của Carl Rogers - Lời dẫn của
người dịch.

Farrell Silverberg
Việc thực hành tâm lý trị liệu là
một nghệ thuật chữa lành (healing art) bao gồm sự phát triển hai khả năng của
nhà trị liệu. Một là khả năng cộng hưởng (resonate) trong khi đáp ứng với thân
chủ. Hai là sự phát triển những kỹ thuật trị liệu nhằm đạt đến sự tinh thông
mang tính trực giác (intuitive mastery). Khi những khả năng này vận hành một
cách hài hòa, việc trị liệu sẽ đạt đến khả năng cao nhất dẫn đến sự bình phục
nơi thân chủ.
Sự chữa lành hay bình phục (healing),
trong bài viết này, có ý nghĩa còn hơn cả việc nhận được khả năng nội thị
(insight) hoặc sự thay đổi hành vi, mặc dù những việc này thường sẽ xảy ra sau
đó. Thuật ngữ này được dùng với ý nghĩa là giúp cho một người bảo tồn được trạng
thái lành mạnh và ngụ ý chỉ tiến trình “trao đổi” từ khổ đau đổi lấy sự thanh
thản, từ bệnh tật đổi lấy sức khỏe, từ xung đột đổi lấy cảm nhận về sự mạnh mẽ
và tính toàn vẹn.
Cộng hưởng trị liệu là phương tiện
đạt đến sự bình phục (therapeutic resonance is the vehicle to healing). Cộng hưởng
là cách “hiện diện cùng với” (being with) một người khác, biểu hiện sự chấp nhận
một cách cơ bản và trải lòng với người ấy. Để cộng hưởng với một ai đó là phải
phục vụ như một tấm gương soi (mirror) cho người ấy, và để có thể trở nên tương
đồng đến mức bạn có thể cảm nhận được những trải nghiệm của người ấy. Sự cộng
hưởng được dựa trên một thái độ chú tâm
trong lặng lẽ, với bản chất không kháng cự và không phê phán. Sự cộng hưởng trị
liệu cho phép tiến trình làm việc diễn ra suôn sẻ, việc này được biểu hiện khi
thân chủ không tỏ ra phiền hà hoặc khó chịu quá đáng khi tiếp nhận những can
thiệp có tính cộng hưởng (resonant interventions). Sự cộng hưởng giữa nhà trị
liệu và thân chủ được xác thực khi nhà trị liệu đáp ứng với thân chủ, còn thân
chủ thì chấp nhận và đáp ứng trở lại như thể nhất trí với nhà trị liệu.
Sự kháng cự lại với việc cộng hưởng
(resistance to resonance) từ phía nhà trị liệu có khuynh hướng trở thành một trở
ngại. Vì thế, nhà trị liệu phải tạo ra một “sự thinh lặng bên trong” (inner
silence) (Izutsu, 1975, p.3) khi làm việc với từng thân chủ để cho phép sự cộng
hưởng với thân chủ ấy có thể trở nên được nhận biết. Izutsu đã quan sát thấy rằng
một nghệ sĩ có đẳng cấp cao khi đang vẽ một bức tranh về cây tre gần như đã “ném
bản thân mình vào trong cái tinh thần sống động của cây tre cho đến khi ông ta
cảm nhận được một sự cộng hưởng kỳ diệu về những nhịp điệu của cây tre bên
trong ông ta như thể đồng nhất với nhịp mạch đập của chính mình... Ông ta trở
nên chính cây tre ấy” (Izutsu, p.3). Khi một nhà trị liệu mở lòng ra để cộng hưởng
với một thân chủ và nhận biết về khả năng xảy ra một sự cộng hưởng như thế, là
đang đứng vào một vị thế hoàn thiện để tạo nên một bầu khí mang tính trị liệu.
Chẳng hạn như nếu một thân chủ đang nói với một cách thức không biểu cảm, nhà
trị liệu bắt đầu cảm thấy trầm lại và thất vọng - cảm nhận ấy hơi bị giảm bớt
đi khi thân chủ ngừng lại giữa những câu nói, rồi sau đó nói tiếp - khi ấy, một
sự cộng hưởng có thể đang xảy ra. Thân chủ có lẽ đang được phản ảnh bên trong tấm
gương soi của nhà trị liệu.
Trong lý thuyết tâm lý học Tây
Phương, có thể phát hiện thấy những sự tương đồng trong trải nghiệm về sự cộng
hưởng. Sullivan (Mullahy, 1970) lập luận rằng một số hiện tượng có thể xảy ra
theo kiểu “một phương thức giao tiếp hoặc như một sự lây lan về mặt cảm xúc (mà
những điều này) có lẽ không thể xảy ra thông qua những kênh giác quan thông thường”
(p.344). Heimann (Racker, 1968) có nêu về một “mối quan hệ từ tầng thâm sâu
chuyển đến hiện diện trên bề mặt dưới hình thức những cảm nhận” (p.128).
Spotnitz (1976) đã xem sự lan truyền trạng thái cảm xúc từ thân chủ sang nhà trị
liệu như là một sự “cảm ứng về mặt cảm xúc” (emotional induction) (p.25), một
tiến trình thường xuyên diễn ra giữa những con người trên bình diện vô thức”
(p.25).
Một nhà trị liệu không nhận biết
về sự cộng hưởng sẽ vô tình bị nó chi phối. Ví dụ, khi một nhà trị liệu bắt đầu
cộng hưởng với trạng thái trầm cảm của một thân chủ, mà không nhận ra rằng mình
đang như thế, có thể sẽ rơi vào một sự đáp ứng theo kiểu im lặng và thụ động.
Đây là một phản ứng đối với sự cộng hưởng, chứ không phải là chính sự cộng hưởng.
Một nhà trị liệu mẫn cảm với những hiệu ứng khó chịu từ một số trạng thái nào
đó có thể sẽ vô ý tìm cách né tránh một số tình huống cộng hưởng. Ví dụ, khi
nhà trị liệu không thể dung nạp được cảm nhận về sự tuyệt vọng ngay vào lúc cần
đến sự cộng hưởng với thân chủ, ông ta có thể sẽ kháng cự lại sự trải nghiệm
này. Một tiến trình nếu không sẵn có trong tâm trí có ý thức của nhà trị liệu
có thể sẽ đẩy ông ta ra khỏi trạng thái hiện diện cùng với thân chủ. Việc nhà
trị liệu “rời khỏi” sự cộng hưởng có thể diễn ra dưới những hình thức như ông
ta sẽ nói nhiều hơn để làm giảm bớt sự căng thẳng của chính mình, hoặc tìm cách
can thiệp để thay đổi những trải nghiệm nơi thân chủ trở thành những hình thức
trải nghiệm dễ dung nạp hơn khi cộng hưởng.
Izutsu (1975) đã trích dẫn một
Công án Thiền (koan) như sau:
Có lần, một tăng sinh đã hỏi thiền
sư Triều Châu rằng: “Triều Châu là ai?”. Triều Châu đã đáp rằng: “Đông Môn, Tây
Môn, Nam Môn, Bắc Môn!”
Cũng tương tự như với Triều Châu,
tất cả những cánh cổng của nhà trị liệu đều phải mở ngỏ và tất cả chư khách đều
phải được phép vào ra không có ngoại lệ. Nhà trị liệu phải mở lòng đối với tất
cả những gì nẩy sinh trong phiên trị liệu. Tất cả những cảm nhận và suy nghĩ của
nhà trị liệu có thể là một sự phản ảnh về thân chủ, và nhà trị liệu phải chấp
nhận chúng. Yêu thương, trầm uất, hạnh phúc, rối rắm, thất vọng, hụt hẫng, cảm
thông, tuyệt vọng, khao khát, nặng đầu, chán chường, cự tuyệt, mong muốn được
giúp, thậm chí là một mong muốn khước từ sự trải nghiệm; tất cả phải được phép
đi vào, nhưng không phải tất cả đều được làm theo. Việc phát ngôn nên được hạn
chế với thời gian và số lượng ngôn từ thích hợp. Thời gian nói, giọng điệu và
cách nói được xác định bởi sự kết hợp giữa việc cộng hưởng trị liệu và các yếu
tố kỹ thuật.
Một nhà trị liệu phải được huấn
luyện theo một cách thức sao cho những phản ứng tự nhiên bắt một số trải nghiệm
nào đó phải “dừng lại ở những cánh cổng” phải được rút ngắn thời gian lại khi
đang làm việc cùng với thân chủ. Việc này không phải là dễ. Ngay như một thành
phố cũng cần đến những tường rào và những cánh cổng để bảo vệ, tâm trí chúng ta
cũng thế. Liệu rằng điều này có nghĩa là nhà trị liệu cũng cần phải có khả năng
dung nạp những cảm nhận mang tính loạn thần khi làm việc với một người bệnh bị
loạn thần, hoặc những cảm nhận toan tính tự sát khi làm việc với một thân chủ
tính tự sát? Vâng, đúng thế, nếu đây là những trải nghiệm thực của thân chủ.
Không một người bình thường nào tự nguyện trải nghiệm những điều như thế. Vì vậy,
những phản ứng mang tính phản xạ của nhà trị liệu nhằm mục đích tự bảo vệ cần
phải được tôi luyện vì lợi ích của những thân chủ. Racker (1968) đã mô tả mối
nguy về một kiểu đáp ứng có tính phản xạ mà ông gọi là những đáp ứng “mang tính
trừng phạt” (tạm dịch từ nguyên văn: “talionic” responses) từ phía nhà trị liệu.
Khi chúng ta tình cờ chạm tay vào
một vật nóng, chúng ta sẽ nhanh chóng rút tay lại. Nhưng trong một phiên trị liệu,
khi chúng ta cảm thấy bị thôi thúc phải nói ra một điều gì đó, chúng ta phải
không làm như thế; phản ứng này phải nhanh chóng được đánh giá, để rồi sau đó,
hoặc có thể được nói ra, hoặc có thể được giữ lại và được dung nạp. Cùng với
quá trình huấn luyện và thực hành, khoảng thời gian ngưng lại để đánh giá như
thế có thể chỉ còn là một phần của một giây và sau cùng trở nên một việc gần
như mang tính trực giác.
NHÀ TRỊ LIỆU TRONG HUẤN LUYỆN
Nhà trị liệu và chuyên viên giám
sát của anh ta cũng phải tôn trọng những giới hạn của nhà trị liệu trong khả
năng dung nạp ấy. Cần có thời gian để đạt đến một tâm trí rộng mở “không có những
chướng ngại” (tạm dịch từ nguyên văn: “gatelessness”). Cũng tương tự như trong
việc thiền định, việc thực hành và huấn luyện thường xuyên sẽ giúp một người mở
rộng dần mức độ nhận biết của mình. Việc áp dụng tâm lý trị liệu với mục đích
chữa lành (bình phục) sẽ có thể diễn ra khi nhà trị liệu đạt đến những tố chất
như sau:
1. Khả năng cộng hưởng với thân
chủ;
2. Khả năng đón nhận vai trò là
người phản ảnh lại thân chủ của mình, bất kể việc này gây ra sự băn khoăn và
không thoải mái;
3. Khả năng nhận biết được những
việc như thế đang diễn ra
Một khi cả ba tiêu chí này được
thỏa, phần còn lại sẽ là vấn đề của kỹ thuật và kinh nghiệm. Việc đi sâu vào thực
hành trị liệu đòi hỏi sự khổ luyện, và một số quy trình về mặt kỹ thuật có thể
mang lại một cấu trúc cho việc học tập và thực hành. Điều quan trọng là phải học
được cách giữ kiên nhẫn, biết kiềm chế và nhận biết về bản thân (self awareness)
ngay từ những giai đoạn đầu của việc huấn luyện. Cũng như trong thiền định, những
khổ luyện cơ bản cần được thực hành đó là ngồi yên, nhận biết và giữ im lặng -
bất kể những trải nghiệm về tinh thần và thể xác đang diễn ra như thế nào - cho
đến khi việc này có thể làm được một cách tự nhiên. Một khi việc này đã học được,
nhà trị liệu có thể thoải mái đi vào công việc.
Việc giám sát và các can thiệp về
mặt kỹ thuật có thể tạo nên một chiếc cầu nối tạm thời giữa trải nghiệm của
thân chủ và trải nghiệm của nhà trị liệu. Chuyên viên giám sát cần phải cộng hưởng
với nhà-trị-liệu-trong-huấn-luyện cũng như với thân chủ của nhà trị liệu. Việc
trải nghiệm sự cộng hưởng như thế bởi một chuyên viên giám sát cũng giúp làm
tăng khả năng thực hành việc cộng hưởng của chính nhà trị liệu. Nó cho phép anh
ta tiếp xúc với những trải nghiệm của chính mình, học cách dung nạp chúng và
sau cùng là sẵn lòng đón nhận những trải nghiệm ấy.
Trong khi cộng hưởng với nhà-trị-liệu-trong-huấn-luyện,
chuyên viên giám sát có thể cộng hưởng với những khó khăn mà nhà trị liệu gặp
phải trong ca làm việc này, cũng như với những trải nghiệm chung của anh ta.
Nói chung, việc này có tính trị liệu theo chiều ngược lại nhằm truyền đi một sự
cộng hưởng đối với các khó khăn của nhà trị liệu, và vị chuyên viên giám sát
khôn ngoan sẽ tự mình kiềm giữ chúng lại (Nguyên văn: Generally, it is
countertherapeutic to transmit resonance to the therapist’s difficulties, and
the prudent supervisor restrains himself). Kết quả là một sự cộng hưởng khác có
thể nẩy sinh và sẽ hữu ích nếu sự cộng hưởng này được bày tỏ với nhà trị liệu.
(Sự cộng hưởng thường được truyền đi bằng lời nói, mặc dù đôi lúc, chỉ cần có sự
cộng hưởng thôi thì cũng đủ). Một ví dụ về sự cộng hưởng giữa chuyên viên giám
sát và nhà trị liệu sẽ được mô tả dưới đây:
Một nhà-trị-liệu-trong-huấn-luyện
đến gặp tôi (tác giả) trong phiên giám sát về một trường hợp đã khiến cho cô ấy
rất lo lắng. Bệnh nhân của cô ấy cảm thấy cuộc sống xung quanh anh ta càng ngày
càng như bị vỡ vụn ra và anh ta rất hoảng sợ khi bị một cơn loạn thần ngắn
(psychotic break). Nhà trị liệu cũng đã đáp ứng lại với anh ta bằng một sự sợ
hãi tương tự, rồi cô ấy cố gắng hết sức để an ủi, xoa dịu, tìm cách sửa chữa và
khảo sát vấn đề của anh ta. Những cố gắng của cô đã không hiệu quả; người bệnh
vẫn không thể dễ dàng nói chuyện với cô và tiếp tục bị tràn ngập bởi những cảm
xúc của mình.
Trong khi cộng hưởng với nhà trị
liệu, tôi (tác giả) cũng đã trải nghiệm một nỗi lo sợ về khả năng bệnh nhân này
sẽ rơi vào tình trạng thoái triển do loạn thần (psychotic deterioration) và về
những hệ quả mà việc này gây nên đối với người đang được tôi làm giám sát. Sự cộng
hưởng này có lẽ cũng phản ảnh nỗi lo sợ của bệnh nhân về việc anh ta ngày càng
mất dần khả năng kiểm soát bản thân. Tôi đã cảm nhận được một sự cộng hưởng thứ
hai, một mong muốn phải làm cho nhà trị liệu được vững lòng và được xoa dịu, điều
mà tôi cho rằng đã phản ảnh cả việc cô ấy muốn xoa dịu bệnh nhân lẫn việc bệnh
nhân mong được cô ấy giúp đỡ. Rõ ràng cả hai người đều đang đấu tranh với những
trải nghiệm của họ và chìm ngày càng sâu hơn vào trong rối rắm. Thêm vào đó,
nhà trị liệu này lâu nay đã có khuynh hướng tự ngờ vực về bản thân mình. Cô ấy
sẽ rất khổ sở nếu lúc nào đó cảm thấy mình dường như bị thất bại. Cô ấy cũng cần
hỗ trợ để tăng thêm lòng tự tin để tiếp tục con đường phát triển của chính bản
thân cô cũng như trong việc giúp đỡ cho bệnh nhân của cô.
Tôi đã quyết định giữ lại cho
riêng mình sự cộng hưởng ban đầu gây ra sự lo sợ nơi chính tôi để không
gây bất an cho cả nhà trị liệu lẫn bệnh
nhân thêm nữa, và chọn lựa cách đáp ứng bằng sự cộng hưởng có tính xoa dịu một
khi nó đạt đủ cường độ. Tôi nhẹ nhàng nói với nhà trị liệu, đặt cho cô một câu
hỏi để truyền đi sự cộng hưởng của tôi, và biểu thị lòng tin của tôi đối với
cô, và vì thế đã làm cho tiến trình trị liệu trở nên bớt áp lực hơn. “Đến nay,
bệnh nhân đã theo đuổi việc trị liệu với cô trong một thời gian. Điều gì khiến
cô nghĩ rằng những gì cô đã làm trước đây sẽ không làm xoay chuyển được tình thế
ngay khi anh ấy trở nên sẵn sàng?” Tôi giúp cô ấy vững lòng về những khó khăn
trong ca làm việc và bày tỏ sự chia sẻ với gánh nặng công việc của cô ấy. Cô đã
tỏ ra bớt lo lắng sau những can thiệp này và nói: “Đã bớt cảm giác giống như phải
chạy đua với lửa rồi!”.
Tuần lễ sau đó, nhà trị liệu đã
báo lại rằng sau vài phút bắt đầu của phiên trị liệu, đã có một sự thay đổi rõ
nơi bệnh nhân của cô. Bệnh nhân trở nên bình tĩnh hơn, nói năng thoải mái hơn
trước đó và thông báo rằng nỗi sợ hãi đã thực sự im tiếng. Tuy nhiên, nhà trị
liệu thì lại báo rằng cô đã gần như chẳng thể làm được gì khác hơn ngoài việc bớt
lo sợ hơn khi đi đến phiên trị liệu.
Về bản chất, cuộc giám sát trên
liên quan đến việc nó đã “dung chứa” sự sợ hãi của cả nhà trị liệu lẫn của bệnh
nhân, làm mẫu cho nhà trị liệu về khả năng kiềm giữ một cách toàn tâm (mindful
restraint), cho phép xảy ra một sự chuyển tiếp về sự cộng hưởng, truyền đi sự cộng
hưởng thông qua một giọng nói và sự bàn luận mang tính chất xoa dịu, và vì thế
tạo nên chiếc cầu nối giúp nhà trị liệu xoa dịu bệnh nhân. Cuộc giám sát đã
giúp thay đổi nhà trị liệu, và bệnh nhân đã đáp ứng lại điều này một cách gần
như tức thời - chắc chắn rằng trải nghiệm đó chính là sự cộng hưởng mang tính
trị liệu.
Việc sử dụng khả năng cộng hưởng
không thể được học theo kiểu “học để biết” (intellectual manner). Nó phải được
học bằng cách trải nghiệm thông qua việc thực hành có giám sát. Trungpa (1984)
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huấn luyện. Ông cho ví dụ về một tay đua đã
có thể “lái xe với tốc độ 200 dặm một giờ trên đường đua nhờ được huấn luyện.
Anh ta biết rõ những giới hạn của động cơ, bánh lái và các lốp xe. Anh ta cũng
biết về khối lượng xe, tình trạng đường và điều kiện thời tiết. Vì thế anh ta
có thể lái xe nhanh mà không trở thành hành vi tự sát. Thay vì thế, nó trở
thành một vũ khúc. Nhưng nếu bạn để bản thân làm điều đó trước khi hoàn tất việc
gắn mình với sự khổ luyện, việc đó hoàn toàn rất nguy hiểm.” (p.55-56)
Trungpa (1984), khi bàn đến sự
thư giãn trong khi khổ luyện, đã nêu rõ “Đó là một sự thư giãn dựa trên sự hài
hòa, đồng điệu với môi trường” (p.56). Trong trường hợp thực hành trị liệu, các
can thiệp được khơi nguồn từ việc huấn luyện, khổ luyện, từ những kiến thức mà
nhà trị liệu có trong tâm trí của mình, cũng như từ khả năng cộng hưởng với những
gì bên trong tâm trí của thân chủ.
KỸ THUẬT
Chỉ riêng sự cộng hưởng không đủ
để chữa lành cho một thân chủ. Thêm vào đó, một nhà trị liệu có kỹ năng cũng
tham gia vào những hoạt động mang tính chiến lược (strategic activities) nẩy
sinh từ trong “lãnh địa” của sự cộng hưởng. Những hoạt động như thế có thể được
thấy trong ba thể loại sau đây: im lặng trầm tư (contemplative silence), những
can thiệp theo kiểu “hiện diện cùng với” (“being-with” interventions) và những
can thiệp theo phép đồng căn (homeopathic interventions). Điều này thoạt tiên
nghe có vẻ như trái ngược khi sử dụng sự tính chất mở lòng và phi mục đích của
sự cộng hưởng nhưng lại theo một kiểu thức mang tính chiến lược (Từ “strategic”
ở đây hàm nghĩa “có toan tính” - N.D.). Tuy nhiên, một nhà trị liệu có kỹ năng,
trong cùng một lúc, có thể vừa hành xử một cách tự nhiên vừa theo kiểu có toan
tính.
Im lặng trầm tư
Vai trò của sự im lặng trong tiến
trình trị liệu thường bị xem nhẹ. Như những gì hiện đang được thực hành, việc
trị liệu thường trở thành một tiến trình giáo dục thay vì là một quá trình bình
phục. Nhiều thân chủ tìm đến trị liệu với sự hiểu nhầm rằng nếu họ tìm ra chuyện
gì họ làm đã gây ra nỗi đau của họ và tại sao họ lại làm thế thì khi ấy họ sẽ
thoát khỏi khổ đau một cách diệu kỳ. Theo ý kiến của tôi, điều này không luôn
luôn đúng.
Điều quan trọng đối với nhà trị
liệu là phải có được sự nội thị (insight) vào trong thân chủ sao cho những trải
nghiệm về sự cộng hưởng với thân chủ có thể được hiểu trong bối cảnh có sự hiểu
biết nhiều hơn về thân chủ. Nhưng điều quan trọng không kém đó là phần lớn công
việc này lại xảy ra bên trong nhà trị liệu vào những lúc có sự im lặng trầm tư
trong phiên trị liệu.
Sự im lặng trầm tư là một quá
trình lắng nghe một cách lặng lẽ, có sự nhận biết về sự cộng hưởng với thân chủ,
cùng hiện diện với những trải nghiệm của thân chủ trong từng thời khắc (being
with his moment-to-moment experience), duy trì sự nhận thức về lịch sử cũng như
cuộc sống hiện tại của thân chủ và sẵn sàng thực hiện những can thiệp (tức là sẵn
sàng nói chuyện với thân chủ). Sự can thiệp xảy ra vào thời điểm mà thân chủ cần
đến nó hoặc khi tất cả những thành tố của phiên trị liệu đã tạo một hướng mở
cho sự can thiệp kế tiếp. Mặt khác, cũng cần phải biết giới hạn lại các hoạt động.
Trong việc thực hành tọa thiền
(zazen), việc giới hạn hoạt động đến mức tối thiểu (Suzuki, 1970, p.75) là cách
thức hiện diện ngay trong khoảnh khắc hiện tại và thể hiện khoảnh khắc ấy về mặt
nội tâm. Trong khi thực hành sự im lặng trầm tư, việc nhà trị liệu hạn chế các
hoạt động sẽ dẫn đến một sự cộng hưởng mà từ đó giúp khơi nguồn cho khả năng thực
hiện những hoạt động chữa trị.
Sự im lặng trầm tư cũng có thể là
một bài tập giúp nhà trị liệu khổ luyện khi có sự xuất hiện của một trải nghiệm
gây nhiều lo lắng. Đó cũng chính là những khoảnh khắc mà việc quan trọng nhất
phải làm là dung nạp và điều nghiên trong thinh lặng. Như Lief (1983) đã nêu,
khi chúng ta cho phép mình cảm nghiệm về sự không thoải mái, thì một sự chấp nhận
và nội thị sẽ được hình thành” (p.11). Khi việc thực hành được lập đi lập lại,
nhà trị liệu sẽ phát triển được khả năng hành xử theo một phương thức có tính
chữa trị, bất kể bầu khí cảm xúc diễn ra như thế nào trong phiên trị liệu. Bằng
cách đó, nhà trị liệu “có thể vượt qua sông mà không bị rơi vào nhiễu loạn”
(Trungpa, 1973, p.173).
Để ví dụ, tôi xin nói về một
phiên trị liệu với một bệnh nhân mà tôi đã làm việc trong một thời gian, thình
lình tôi chịu một sự thôi thúc mãnh liệt phải trao tặng gì đó cho anh ta. Tôi
nghĩ rằng đây là một sự cộng hưởng, và có thể đã phản ảnh một nhu cầu nào đó
nơi thân chủ của tôi. Rồi kế tiếp tôi nhớ lại rằng có một người bạn của tôi đã
làm cho tôi một món quà nhỏ là một bưu thiếp bằng tranh ghép gỗ kiểu Nhật mà
tôi vẫn đang mang theo và đặt trong quyển sổ ghi lịch làm việc. Tự nhiên tôi có
ước muốn trao tặng tấm bưu thiếp ấy cho thân chủ của tôi. Khi áp dụng cách im lặng
trầm tư, tôi kiềm giữ lại ý định giải bày và thực hiện việc này, điều nghiên nó
và làm nó mạnh lên trong trải nghiệm của tôi. Vào phiên trị liệu kế tiếp với
thân chủ này, những trải nghiệm nhiệt tình và mong muốn trao tặng chiếc bưu thiếp
thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Trong khi điều nghiên lặng lẽ, tôi nhận ra rằng
không có chỉ báo nào từ phía thân chủ của tôi cũng như không có yếu tố nào
trong phiên trị liệu tạo lối mở cho việc tặng một món quà như thế. Một lần nữa,
tôi lại kiềm giữ ý định. Khi thân chủ bước vào phiên trị liệu kế tiếp, anh ta cầm
đưa cho tôi một mảnh giấy thông cuộn tròn lại và cho tôi biết đây là một món
quà mà anh muốn tặng tôi để bày tỏ lòng biết ơn. Tôi mở tờ giấy ra và thấy
trong đó là một bản in từ tranh ghép gỗ.
Hồi tưởng lại, tôi thấy rõ ngay rằng
cảm nghĩ muốn tặng tấm bưu thiếp bằng tranh ghép gỗ của tôi đã cộng hưởng với
việc thân chủ cũng muốn tặng quà cho tôi. Bằng cách sử dụng sự im lặng trầm tư
và đơn giản là dung nạp trải nghiệm của chính mình cho đến khi ý nghĩa của nó
trở nên rõ ràng, tôi đã giúp thân chủ đi dần theo lộ trình mà anh ta muốn thực
hiện và mở ra con đường trị liệu theo cách mà anh ta cần. Kết quả của việc cộng
hưởng trong thinh lặng có thể là dừng lại hoặc thực hiện một can thiệp. Trong
tình huống trên, việc can thiệp đã được hoãn lại.
Tuy nhiên, có những lúc việc im lặng
có thể gây hủy hoại cho tiến trình trị liệu. Trong những tình huống ấy, việc im
lặng đã không đồng điệu với thân chủ và không thực sự là im lặng trầm tư. Một số
thân chủ đòi hỏi nhà trị liệu nói nhiều. Tương tự, nhiều nhà trị liệu
trong giai đoạn ban đầu được huấn luyện
đôi khi cũng cần nói để thanh lọc bớt những cảm nhận không thoải mái nhằm giúp
họ tránh khỏi sự cộng hưởng với thân chủ. Sau khi thực hiện sự thanh lọc này, họ
có thể trở lại với việc hiện diện cùng thân chủ.
Thông qua việc thực hành thiền định
đều đặn, trạng thái tâm trí được nhận thức sẽ đến như kết quả của việc chỉ cần
ngồi, theo dõi hơi thở và chú tâm, ở tư thế đúng, lập đi lập lại. Khi trạng
thái này trở nên tự nhiên hơn, sự nhận biết và trải lòng sẽ có thể được khởi động
cả trong những sinh hoạt của cuộc sống thường ngày. Tương tự như vậy, lập đi lập
lại việc thực hành sự cộng hưởng trị liệu có thể được xem như con đường để nhà
trị liệu đào sâu khả năng cộng hưởng với người khác và xa hơn có thể hành xử
theo một cách thức có tính trị liệu với nhiều kiểu thân chủ, trong nhiều bầu
khí trị liệu khác nhau.
Các can thiệp theo kiểu “cùng hiện
diện với”
Việc làm quan trọng nhất của nhà
trị liệu là thực hiện những can thiệp nhằm tạo lập nơi thân chủ một cảm quan về
việc mình hoàn toàn được hiểu - một trạng thái hòa hợp nhất thời với nhà trị liệu.
Những can thiệp như thế giúp thân chủ nhận ra rằng anh ta không đau khổ một
mình và bị bỏ mặc, đồng thời cũng tạo cơ hội cho việc làm giảm bớt tính phòng vệ.
Do bởi thân chủ là những người hay do dự, dễ nản chí, yếu đuối và bị cô lập, loại
can thiệp này sẽ có hiệu quả theo thời gian như là một sự truyền lực hay tiếp sức
(transfusion). Nó giúp củng cố vị thế bản ngã (selfhood) của thân chủ, từ đó
chuyển dần thành sức mạnh ý chí của anh ta. Những can thiệp này có thể là một
giọng nói hoặc một thái độ được khơi nguồn từ sự cộng hưởng của nhà trị liệu;
cũng có thể mang hình thức là đứng về phía thân chủ hoặc thậm chí dùng lời lẽ để
công kích những người mà thân chủ xem là đã gây hại cho mình [Đây là quan điểm
riêng của tác giả Farrell Silverberg. Bạn đọc không nhất thiết phải đồng tình -
Chú thích của người dịch]; chúng cũng có thể có hình thức là sự xoa dịu, đoan
chắc, phản ảnh lại hoặc ủng hộ quan điểm của thân chủ.
Một ví dụ cho những can thiệp
theo kiểu cùng hiện diện liên quan đến một phiên trị liệu của tôi với một thân
chủ, khi cô này vừa bị mất đứa con trông đợi vào thời điểm tháng thứ 8 của thai
kỳ. Cô đã đến phiên trị liệu trong vẻ đau khổ cùng cực. Khi nghe cô kể chi tiết
về sự cố sẩy thai, xen lẫn với những chi tiết về việc hai vợ chồng cô chuẩn bị chào
đón sự ra đời của đứa bé, tôi đã cộng hưởng với nỗi mất mát sâu sắc của cô, với
nỗi cô đơn và đau khổ của cô. Cô khóc trong uất nghẹn, nước mắt ràn rụa trên
gương mặt, không chút thuyên giảm. Tôi cũng không thể cầm giữ được nước mắt và
ngỏ lời chia sẻ nỗi khổ tâm và đồng cảm bắt nguồn từ sự cộng hưởng mạnh mẽ của
tôi. Đáp lại, người nữ thân chủ thư giãn hơn một chút, thổn thức một cách nhẹ
nhàng hơn, sâu lắng hơn trong một lúc.
Một ví dụ khác cho sự can thiệp
theo kiểu cùng hiện diện là trong phiên trị liệu tôi làm việc với một người đàn
ông, người đã dành cả đời như một “kẻ chịu tội cho gia đình” (family scapegoat)
mà sau cùng đã cảm thấy mình hoàn toàn bị thua thiệt và bị gia đình khước từ.
Ông có vẻ kiệt quệ, mất hết sức sống, ông đã từng treo cổ và giọng ông rất khó
nói đủ lớn để có thể nghe được. Các con ông, đang cùng sống với người vợ cũ, mới
đây đã từ chối thăm viếng và gọi điện cho ông; mẹ của ông cũng mới vừa qua đời
và đến phút lâm chung vẫn còn than phiền về ông; những thành viên trong gia đình
đã phàn nàn về việc cùng đi với ông trên chiếc xe tang; và cha ông đã cắt đứt
liên lạc với ông ngay sau đám tang của mẹ. Mặc dù thân chủ trình bày trong vẻ yếu
ớt, nhưng tôi lại trải nghiệm một sự xúc phạm và phẫn nộ đối với sự vô cảm của
gia đình ông ấy và tôi nghĩ rằng đây là sự cộng hưởng với một phần đang được ẩn
giấu bên trong thân chủ. Tôi bắt đầu nói xen vào những lời bình tiêu cực về gia
đình của ông ta [Đây là cách làm riêng của tác giả Farrell Silverberg. Bạn đọc
không nhất thiết phải đồng tình - Chú thích của người dịch], cho phép sự giận dữ
mang tính cộng hưởng của tôi được tuôn ra qua lời nói: “Họ nói với anh như thế
tại đám tang sao?”, “Họ đối xử với anh như rác rưởi à!”, “Thật là nhảm nhí hết
sức!”... Thân chủ bắt đầu có vẻ dần chuyển trạng thái từ thẫn thờ trở nên có
sinh khí hơn và bắt đầu biểu hiện sự tức giận của mình. Ông ta nện mạnh nắm tay
xuống ghế khi nói và kết thúc phiên trị liệu một cách quyết tâm “Tôi sẽ không để
cho họ làm tôi gục ngã!”. Việc thân chủ như được tiếp thêm sinh lực cho thấy rằng
sự cộng hưởng đã đạt đến mức căng đầy và thân chủ giờ đã cộng hưởng được những
gì nhà trị liệu truyền sang.
Sự cộng hưởng của nhà trị liệu đối
với tình trạng của thân chủ không hẳn có nghĩa là thân chủ hiểu được tình trạng
của bản thân hoặc hiểu được sự cộng hưởng của nhà trị liệu. Thân chủ có thể ý
thức hoặc không ý thức về những hiện tượng này. Để sự bình phục có thể xảy ra,
không cần thân chủ phải ý thức được về những tình trạng này, nhưng nhà trị liệu
thì phải ý thức được chúng.
Dĩ độc trị độc: Phép đồng căn
Izutsu (1975) dẫn ra hành động của
một thiền sư khi đưa ra cho các môn đồ một câu hỏi không thể trả lời như thể một
“giả nan đề” (pseudo-problem). Việc phản ảnh về một vấn đề như thế có thể gây
ra cảm giác hơi khó chịu, cũng như sự phản ảnh bằng cách trả lời của vị thiền
sư đối với những “câu hỏi không thật sự là câu hỏi” (pseudo-questions) của những
môn đồ cũng có thể không lấy gì làm là dễ chịu. Izutsu dẫn ra việc các thiền sư
thường đáp ứng lại với những câu hỏi như thế bằng những kiểu đáp ứng trông có vẻ
vô nghĩa và mơ hồ, (chẳng hạn “một cú gõ mạnh bằng một chiếc que, một cú hích,
một cái vỗ lên mặt, hoặc một tiếng la...”, p.12). Izutsu xem cách làm này là
“dĩ độc trị độc” (p.10). Những đáp ứng như thế có khuynh hướng động viên người
môn sinh cố gắng hơn để hiểu và làm việc với tinh thần mạnh mẽ hơn.
Trong tâm lý trị liệu, những đáp ứng
như thế đối với thân chủ là hoàn toàn không thích hợp. Tuy nhiên, vẫn có thể sử
dụng một đáp ứng bằng lời nói rất nhẹ nhàng có giá trị tương đương với việc làm
trên nhằm huy động những nguồn lực nơi thân chủ. Theo Lucas (1986), “mặc dù sự
bình phục có thể diễn ra mà không cần sử dụng đến những kích thích hơi khó chịu
này, nhưng thường nó không diễn ra nhanh”.
Một thầy thuốc theo phép đồng căn
có thể sử dụng một loại độc tố với liều lượng nhỏ như một phương thuốc cho bệnh
nhân sử dụng để chữa những triệu chứng đang gây khổ sở cho họ. Để kích thích sự
bình phục, những độc tố được chọn và pha rất loãng để sử dụng chính là những độc tố mà bản thân chúng sẽ
gây ra những triệu chứng tương tự như những triệu chứng bệnh đang làm khổ bệnh
nhân (Moskowitz, 1980). Một phương thức như thế cũng có thể áp dụng cho việc trị
liệu những thân chủ có các phản ứng tự hủy hoại khi tiếp xúc với những “độc tố”
đặc hiệu về cảm xúc hoặc trong những mối quan hệ.
Khi nhân cách hoặc tinh thần của
một người bị tổn thương, một số những nhược điểm sẽ lộ rõ. Do sự tổn hại đã diễn
ra, một số loại kích thích có thể tấn công những nhược điểm này và gây tàn phá
bên trong con người của đương sự vì người đó không có khả năng tự bảo vệ chống
lại chúng. Chẳng hạn khi một thân chủ bị tổn thương đến mức không thể tự bảo vệ
chống lại sự lạm dụng về cảm xúc bởi người khác, có thể đáp ứng lại sự ngược
đãi kia bằng những phản ứng tự làm hại (self-abuse), trầm cảm, lo âu hoặc ý tưởng
tự sát.
Nhà trị liệu dùng kinh nghiệm của
mình để “bào chế ra một phương thuốc” để được sử dụng thông qua một can thiệp đồng
căn (homeopathic intervention). Khi nhà trị liệu cộng hưởng với sự tiêu cực nơi
thân chủ, một can thiệp đồng căn có thể tạo nên sự cải thiện mang tính trị liệu.
Tính tiêu cực có thể được cảm nhận dưới nhiều hình thức, bao gồm tự căm ghét bản
thân (do yếu kém, thất bại), tức giận những người đã gây hại cho thân chủ, hoặc
cảm giác hụt hẫng về hành vi hoặc sự tự hủy hoại của chính mình. Sự tiêu cực được
cộng hưởng cũng có thể được cảm nhận đối với một hoàn cảnh gây stress hoặc một
tiến trình bệnh lý mà thân chủ đang trải qua. Khi nhà trị liệu đã được khổ luyện
cách dung chứa những cảm nhận tiêu cực, ông ấy có thể áp dụng được cách can thiệp
đồng căn. (Trong giai đoạn đầu trị liệu, việc này không được khuyến khích,
nhưng sau khi thân chủ đã trở nên mạnh mẽ hơn, bước đi này có thể được xem
xét).
Cũng giống như phép đồng căn
trong y khoa [thường được dịch là phép “vi lượng đồng căn” - N.D.], cường độ của
sự cộng hưởng cũng sẽ được “pha loãng” thành những liều lượng rất nhỏ và được
“bao bọc” trong một can thiệp có tính gián tiếp. Bằng cách “gián tiếp”, tôi
đang chuyển giao một cách thức can thiệp tế vi và có cường độ nhẹ đến mức thân
chủ không hề nhận biết được về tình trạng bị “nhiễm độc nhẹ” này [Các câu từ và
khái niệm được sử dụng ở đây theo cách riêng của Farrell Silverberg. Bạn đọc cần
thận trọng tìm hiểu kỹ - Chú thích của người dịch]. Việc can thiệp đồng căn có
thể thực hiện dưới hình thức một giọng nói hơi chua chát, một cách hỏi chuyện
hoặc thách thức tinh tế về vị thế của thân chủ, sử dụng quan điểm (với mức độ tối
thiểu) của chính những người có quan điểm đối nghịch với thân chủ, hoặc có thể
một phần đồng tình với sự tự chỉ trích bản thân của thân chủ. Có một sự tương đồng
trong tâm lý trị liệu Phương Tây đó là khái niệm của Spotnitz về sự “miễn nhiễm
về mặt cảm xúc” (emotional immunization) (1976, p.50) khi mà thân chủ được cho
“những mũi tiêm bằng lời về những cảm xúc mà thân chủ đây gây nên nơi nhà phân
tâm”. Các can thiệp đồng căn có thể kích thích một thân chủ lấy lại sức lực và
đấu tranh cho sự lành mạnh của mình, và sau cùng trở nên ít phụ thuộc vào sự
tiêu cực nữa.
Ví dụ, hãy xem xét trường hợp một
thân chủ có tình trạng rất thụ động và trầm uất. Cô ấy cứ để mặc cho người khác
lợi dụng cô mà không hề phản đối gì, trong khi vẫn tự hào về khả năng cô vẫn
“am hiểu” và ân cần với người khác, bất kể họ đối xử với cô như thế nào. Trong
những phiên trị liệu với thân chủ này, tôi đã trải nghiệm một sự cộng hưởng phức
tạp mà đồng thời vừa có sự ngưỡng mộ những khả năng tự kiềm chế và nguyên tắc sống
của thân chủ, vừa có sự tức giận và muốn nổi loạn vì những ngược đãi người khác
làm với cô. Tôi quyết định kiềm giữ lại không chuyển giao sự tức giận đến người
thân chủ mong manh dễ tổn thương này, và cho phép khơi nguồn lòng ngưỡng mộ của
tôi đối với khả năng kiềm chế của cô được thể hiện thông qua cách can thiệp của
tôi. Tôi chia sẻ với cô một chút trải nghiệm góp phần vào sự kiềm chế của cô và
chút lời khen ngợi cô về những gì cô nghĩ cho người khác. Cô đã đáp ứng lại bằng
một chất giọng phản đối, “Nhưng tôi đã quá mệt mỏi khi phải làm một vị thánh
trong đời của mình!”. Những can thiệp tiếp tục theo hướng này đã được tiếp tục
để ấp ủ dần, làm lớn dần khả năng phản đối và kháng cự nơi thân chủ ấy khi việc
trị liệu tiến triển. (Đây cũng là một ví dụ minh họa cho việc chuyển giao một
phần của sự cộng hưởng phức tạp để thân chủ trải nghiệm, rồi sau đó khơi thông
phần còn lại một cách đầy đủ hơn). Khi thân chủ trở nên mạnh mẽ hơn và dễ bộc lộ
hơn, các can thiệp của tôi dần dần bắt đầu được bao gồm những liều lượng rất nhỏ
của những cộng hưởng về sự tức giận mà tôi đã trải nghiệm, và tôi cũng bắt đầu
sử dụng một chất giọng chua chát hơn. Thân chủ, được tăng dần khả năng miễn nhiễm,
cũng đã cộng hưởng ngược lại với những phản kháng giận dữ của tôi và những “chỉnh
sửa” từ quan điểm của tôi.
Khi thân chủ học được cách tự bảo
vệ chính mình, họ sẽ bắt đầu thể hiện sự thù hận mà đã có lần từng bị hướng đến
việc chống lại bản thân. Ở đây, nhà trị liệu cần được khổ luyện, và phải có khả
năng dung nạp được tính thù hận (cũng như những phản ứng của bản thân đối với sự
thù hận), mà không kháng cự lại hoặc trở nên tự phòng vệ cho chính mình. Nhà trị
liệu phải cho phép bản thân mình được sử dụng cho mục đích này, rất giống như
cách thức mà Trungpa (1973) mô tả về sự hành đạo của một vị Bồ Tát. Một người
như thế đã phải học được cách “tin vào những dữ kiện thực tế mà bạn không cần đến
để làm yên ổn phần đất đứng của bạn” (Trungpa, 1973, p.100). Việc kháng cự lại
những kiểu biểu hiện ban đầu từ thân chủ sẽ khiến nhà trị liệu chuyển ngược lại
cho thân chủ sự hung hăng của mình. Những biểu hiện như thế từ thân chủ có tầm
quan trọng đặc biệt, nhất là khi có khả năng họ tự sát hoặc khi có dấu chỉ cho
thấy họ có những diễn tiến xấu về cơ thể, chẳng hạn như bệnh ung thư.
Việc nhà trị liệu chấp nhận tính
tiêu cực là một khía cạnh quan trọng trong việc hỗ trợ cho thân chủ chuyển hướng
về sự lành mạnh. Khi bàn luận về vai trò của những vị y sư Tây Tạng, Donden
(1983) cũng thể hiện một nhãn quan tương tự khi nêu ra rằng vị thầy chữa
(healer) đã “dự liệu để tất cả đêm đen, tất cả bóng tối, tất cả những tật bệnh,
sẽ được hấp thụ vào người bệnh, và tất cả những tia sáng, sức khỏe và sự lành mạnh,
cũng sẽ được chiếu soi đến người bệnh” (p.26). Để thúc đẩy việc bình phục,
chúng ta cũng cần sẵn lòng để thực hành việc “trao đổi giữa ta và tha nhân”
theo cách thức như thế này (Kongtrul, 1987, p.6).
SỰ LÀNH MẠNH, LÒNG TRẮC ẨN VÀ KỸ
NĂNG
Việc sử dụng sự cộng hưởng như
phương tiện đạt đến sự bình phục có cơ sở dựa trên những trải nghiệm lập đi lập
lại rằng thân chủ sẽ tự nhiên đi theo một lộ trình nội tại (intrinsic path) hướng
đến sự lành mạnh nếu họ được mang lại một bầu khí cho phép những sự dịch chuyển
như thế. Thân chủ biết được lộ trình lành mạnh này nhưng có lẽ họ đã không thể
theo đuổi được. Với những biểu hiện thế này thế khác, tất cả những thân chủ đến
với trị liệu đều thể hiện tình thế lưỡng nan này, hoặc thể hiện những triệu chứng
như thể là vấn đề của họ.
Thông qua tiến trình bình phục,
thân chủ trở nên quen thuộc trở lại với những phẩm chất mà bấy lâu có lẽ đã bị ẩn
giấu hoặc bị xem nhẹ. Sự hồi phục những phẩm chất này cho phép thân chủ theo đuổi
lại lộ trình và những mục đích sống của mình. Khi chúng ta hồi phục lại những
phẩm chất, chúng ta sẽ thấy chúng như đã có sẵn rồi. Như Ryokan (1977) đã nêu,
“Nếu chúng ta đạt được điều gì đó, thì từ đầu nó vẫn có đó. Nếu chúng ta mất đi
thứ gì đó, nó chỉ bị ẩn giấu đó đây thôi” (p.48). Có những phẩm chất bị chôn
vùi trong nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, bởi nhiều kiểu tổn thương khác
nhau, và một số lại chẳng bao giờ có cơ hội để phát triển đầy đủ trước khi
chúng bị ngăn trở hoặc bị tổn thương. Sự
tái hiện và củng cố những năng lực này sẽ giúp thân chủ một lần nữa cảm nhận được
tính toàn vẹn của bản thân.
Công việc chính của thân chủ khi
đến phiên trị liệu (cũng như của nhà trị liệu khi đến phiên giám sát) là hãy là
chính mình, thành thật và trải lòng nói ra những gì đang diễn ra bên trong tâm
trí - với khả năng tốt nhất vào mỗi lúc. Khi nhà trị liệu phải thực hành việc cộng
hưởng với chính mình ngày qua ngày, thân chủ cũng dần dần trở nên là chính mình
và mở lòng nói chuyện một cách mạch lạc hơn. Theo Lucas (1986), việc tạo cho
thân chủ một “môi trường có tính đồng điệu và thân thuộc sẽ giúp cho sự tăng
trưởng diễn ra một cách lành mạnh và chắc chắn”.
Một nhà trị liệu lành nghề cần tập
trung chú tâm vào những trải nghiệm của chính mình về sự cộng hưởng, lưu ý đến
những lúc mình bị xao lãng và rồi quay trở lại cộng hưởng với thân chủ. Ở đây
chúng ta không phải nói rằng những điều như lịch sử bản thân, các mô hình, những
yếu tố động năng, lộ trình cá nhân, những sự kiện trong đời và yếu tố văn hóa của
thân chủ là không quan trọng. Những yếu tố này, hiển nhiên, cũng vô cùng quan
trọng. Chúng tự nhiên đi vào nội dung thân chủ trình bày về bản thân họ, cũng
như những yếu tố tương tự cũng sẽ đi vào sự cộng hưởng của nhà trị liệu đối với
thân chủ. Trungpa (1987) nhấn mạnh vào sự chú tâm đến các trải nghiệm trong trị
liệu và xem việc này quan trọng hơn các yếu tố lý thuyết và lịch sử vốn được cho là thích hợp với thân chủ:
“Quá khứ thì đã qua, tương lai
thì chưa đến, vì thế chúng ta làm việc với những gì đang ở đây: hoàn cảnh hiện
tại. Việc này giúp chúng ta không cần phân loại hoặc lý thuyết hóa. Một tình huống
sống động, chân phương luôn luôn xảy ra vào mọi lúc, ngay tại hiện tiền. Phương
pháp tiếp cận mang tính không phân loại này (noncategorizing approach) bắt nguồn
từ việc hiện diện đầy đủ tại lúc này, thay vì cố gắng dõi theo những sự kiện
nào đó trong quá khứ. Chúng ta không cần phải nhìn lùi về quá khứ để xem xét việc
chúng ta hoặc những người khác đã được hình thành nên từ đâu. Mọi thứ tự chúng
lên tiếng, ngay tại đây và lúc này” (p.13).
Việc thực hành sự cộng hưởng là
cách thức giúp cho sự bình phục mà điều này có thể phát triển nếu chúng ta sẵn
lòng trải nghiệm sự đau khổ của một người khác trong khi đang giúp đỡ người đó
trở nên tốt hơn; đó cũng là sự biểu hiện của lòng trắc ẩn. Như Donden (1983) đã
nêu, “sự bình phục xảy ra khi nhà trị liệu xuất phát từ động cơ cơ bản là đúng
đắn, đó là tình yêu thương và lòng trắc ẩn” (p.22). Thực hành sự cộng hưởng sẽ
giúp phát triển tính nhẫn nại và lòng khoan dung nơi nhà trị liệu, và việc giám
sát giúp tạo nền tảng vững chắc để thực hiện việc này.
Những nhà trị liệu bị lôi cuốn
vào nghề nghiệp của mình bởi khả năng cảm nhận đối với người khác, bởi thế, họ
vốn cũng thường có một số trải nghiệm nào đó về sự cộng hưởng. Việc thực hành trị liệu, nếu chỉ dựa trên huấn
luyện “học để biết”, sẽ không thể nuôi dưỡng được khả năng này và cũng không thể
truyền dạy lại khả năng này để được áp dụng. Thực hành sự cộng hưởng là cách
làm trong đó kỹ năng và lòng trắc ẩn trở nên lồng ghép vào nhau, và việc vun trồng
kiểu “trắc ẩn có kỹ năng” (skilled compassion) này chính là lộ trình để trở
thành một người chữa trị (healer).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.