Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Nguyên tác: Louis Hoffman - Postmodernism and Psychotherapy
http://postmodernpsychology.com/postmodernism-and-psychotherapy/ March 14, 2017

Người dịch: Nguyễn Minh Tiến



Xu hướng hậu hiện đại, trước tiên, có những tác động rõ rệt trên tâm lý học nói chung so với những ảnh hưởng của nó đối với lĩnh vực tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây không phải là để giảm bớt những gì mà xu hướng hậu hiện đại đang làm thay đổi diện mạo của ngành tâm lý trị liệu đương đại. Bài tham luận này trình bày một cái nhìn tổng quan về một số những khuynh hướng hậu hiện đại quan trọng và những liên hệ của chúng đối với lĩnh vực tâm lý trị liệu.

NHỮNG LIỆU PHÁP TÂM LÝ HẬU HIỆN ĐẠI

Những cách thức ảnh hưởng hiển nhiên nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại lên tâm lý trị liệu đó chính là sự phát triển của những định hướng trị liệu rõ ràng mang tính hậu hiện đại. Một số loại liệu pháp có thể được xếp loại vào nhóm này.

Liệu pháp chuyện kể (còn gọi là “liệu pháp trần thuật” – Narrative Therapy) thường được dẫn ra như một loại liệu pháp tinh hoa mang tính hậu hiện đại. Cách tiếp cận trị liệu này xuất hiện trong thời kỳ hậu hiện đại từ một nhận thức luận hậu hiện đại. Nó trộn lẫn thuyết kiến tạo xã hội và thuyết kiến tạo cá nhân để tạo nên một cách thức hiểu biết về con người và về trị liệu. Tuy nhiên, việc được xem là tinh hoa không có nghĩa đó là loại liệu pháp hậu hiện đại duy nhất hoặc tốt nhất. Một số liệu pháp khác cũng có xu hướng hậu hiện đại.

Phân tâm học đương đại (Contemporary Psychoanalysis) – còn được biết với tên gọi “phân tâm học quan hệ” (Relational Psychoanalysis) tự tách mình ra khỏi các cách thức tiếp cận theo kiểu phân tâm thời kỳ đầu (chẳng hạn như trào lưu theo kiểu Freud, thuyết quan hệ đối tượng – Object Relations và tâm lý học bản ngã – Self Psychology) bằng cách trở nên mang tính chất hậu hiện đại rõ rệt hơn (Hoffman, Hoffman, Robison, & Lawrence, 2005). Cách tiếp cận theo xu hướng kiến tạo xã hội (social constructivist) và tiếp cận liên chủ thể (intersubjective) trong phân tâm học được xem là những “biến thể” của phân tâm học đương đại.

Những liệu pháp hiện sinh nhân văn (nhân bản) đã thể hiện tính chất hậu hiện đại ngay cả trước khi thuật ngữ “hậu hiện đại” được biết đến nhiều (Hoffman, 2004). Cả hai cách tiếp cận này đều nhấn mạnh vào tính chủ quan, sự giới hạn trong khả năng hiểu biết của con người và áp dụng nhiều cách thức nhận biết khác nhau.

Vẫn chưa có nhiều những khuynh hướng hậu hiện đại rõ rệt hơn trong tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, hầu hết các khuynh hướng tâm lý trị liệu đều là những biến thể, đang bao hàm và đang thống hợp những ý tưởng hậu hiện đại.

NHỮNG ĐIỀU TRA VÀ NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ TRONG TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Những khuynh hướng mới trong thực hành dựa trên chứng cứ (evidenced-based practice) cũng biểu lộ các chủ đề hậu hiện đại. Tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học lâm sàng, đã dành ra nhiều năm để cố gắng trở thành một ngành khoa học chắc chắn (tạm dịch từ chữ “hard science”). Điều này thường liên quan đến việc “tự lừa dối” chính nó để sao cho những nghiên cứu tâm lý phải có tính “khách quan” và “đúng thật”. Những nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu về thần kinh học đã là những điều đứng ra bảo vệ cho trào lưu này. Sau cùng, công việc ấy đã thất bại và thường làm cho ngành tâm lý học càng trông có vẻ ngớ ngẩn.

Trong cố gắng để trở nên một ngành khoa học chắc chắn, tâm lý học đã phát triển nên những trào lưu “trị liệu được xác lập bởi thực nghiệm” (empirically validated treatment - EVT) và “trị liệu được hỗ trợ bởi thực nghiệm” (empirically supported treatment - EST). Những loại chữa trị “được thao tác hóa tăng cường” ấy (tạm dịch từ “promoted manualized treatments”), cùng với kiến thức và kỹ năng của nhà trị liệu, và những bản tự đánh giá về sức khỏe tâm lý (self-report ratings of psychological health) được xem là những chìa khóa cho việc trị liệu thành công. Qua thời gian, ngày càng có thêm nhiều bằng chứng được rút ra từ những nghiên cứu phân tích mêta (meta-analysis) và từ những công trình tổng quan trong tư liệu cho thấy những bằng chứng về những phương pháp có sai sót của những trào lưu EVT và EST. Thay vào đó, người ta cho rằng những yếu tố thuộc về thân chủ cùng mối quan hệ trị liệu là những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến kết quả thành công (Horvath & Bedi, 2002; Lambert & Barley, 2002).

Ron Levant, trong thời gian giữ chức Chủ tịch Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, đã khuyến khích việc phát triển việc thực hành dựa trên chứng cứ. Việc này thay thế cho những trào lưu EVT và EST và mở rộng hơn những hiểu biết về thế nào là “chứng cứ” của những kết quả trị liệu thành công. Levant (2005) đã khuyến khích những chuyên viên thực hành từ nhiều trường phái tiếp cận khác nhau tham gia vào cuộc thảo luận về việc nên định nghĩa như thế nào về khái niệm “thực hành dựa trên chứng cứ”. Đó chính là một mối bận tâm rằng nếu những nhà thực hành không tích cực tìm kiếm định nghĩa cho điều này một cách rộng rãi, thì có thể chấm dứt cách định nghĩa tương tự như trào lưu EST đã làm.

Một sự hiểu biết về thực hành dựa trên chứng cứ có thể bao gồm nhiều nguồn tri thức khác nhau (đó chính là tính đa nguyên về nhận thức luận) như những căn cứ cho việc thực hành tâm lý trị liệu. Nó cũng mở cửa cho những nghiên cứu định tính (qualitative research), hỏi ý kiến chuyên gia (expert opinion) và cho việc thiết lập một học thuyết làm nguồn hỗ trợ vững chắc cho tính hiệu quả của một mô thức trị liệu.

Sự ủng hộ cho khuynh hướng này cũng có thể được thấy trong việc thúc đẩy những nghiên cứu đa phương pháp (multimethod research). The American Psychological Association Press gần đây đã phát hành quyển sách đầu tiên về nghiên cứu đa phương pháp (Eid & Diener, 2005). Tương tự, những quyển sách khác gần đây cũng đã tìm kiếm cách thức phối hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng (Creswell, 2002; Tashakkori & Teddlie, 1998; Thomas, 2003). Ngoài ra, ngày càng có thêm những nhà nghiên cứu thừa nhận những hạn chế của việc nghiên cứu như một nguồn hiểu biết có tính khách quan để từ đó có thể khái quát hóa cho những con người và những hệ thống khác nhau.

HIỂU VỀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU DƯỚI MỘT “ÁNH SÁNG KHÁC”

Nhãn quan theo kiểu “hiện đại” (modernist perspective) hàm ý rằng việc trị liệu được lượng giá thông qua các nghiên cứu khoa học “khách quan” có thể xác định được hiệu lực của một phương thức trị liệu. Ngoài ra, xu hướng hiện đại cũng biện hộ rằng những phương thức trị liệu nào được ủng hộ về mặt thực nghiệm hẳn sẽ có vị trí ưu thế hơn. Xu hướng hậu hiện đại lại đưa loại tiền đề này đặt thành nghi vấn dựa trên một số căn cứ khác.

Trước tiên, xu hướng hậu hiện đại đặt nghi vấn về việc các nghiên cứu thực nghiệm liệu là có tính “khách quan” hay không. Sẽ thích hợp hơn nếu sử dụng nhiều loại nghiên cứu khác nhau để lượng giá nhiều loại liệu pháp khác nhau (Hoffman, 2005). Học thuyết cũng nên thường xuyên được đánh giá, nếu không các vấn đề nhận thức luận nẩy sinh có thể phương hại đến tính chắc chắn của nghiên cứu.

Thứ hai, trong khi các nhà tâm lý trị liệu đều chia sẻ mục đích chung là làm giảm triệu chứng, ít nhất ở một mức độ nào đó, và gia tăng chất lượng đời sống, thì họ lại không nhất trí về việc những mục đích ấy sẽ thể hiện ra như thế nào. Nói cách khác, không phải tất cả các nhà tâm lý trị liệu đều có cùng mục đích (Hoffman, 2005). Việc này gây ra rất nhiều khó khăn cho việc xác định liệu pháp nào tốt nhất cho thân chủ nào.

Mối lưu tâm thứ ba liên quan đến những giá trị của thân chủ. Nếu như những liệu pháp khác nhau có những giá trị khác nhau và dẫn đến những cách kết thúc khá khác nhau, khi ấy việc xác định liệu pháp nào tốt nhất cho thân chủ phần nào cũng là một quyết định về các giá trị (Hoffman, 2005). Nói cách khác, cả những giá trị lẫn tính hiệu quả đều cần phải được xem xét khi chọn lựa các tiếp cận trị liệu nào là tốt nhất.

Lĩnh vực tâm lý trị liệu thường trở nên có vẻ ngớ ngẩn khi nó bị lôi kéo vào những cuộc tranh biện vụn vặt về việc “cách tiếp cận trị liệu nào là tốt nhất”. Xu hướng hậu hiện đại đáp ứng lại bằng cách cho rằng đây thậm chí còn không phải là một câu hỏi đúng! Người ta không thể xác định được cách tiếp cận trị liệu nào là ưu thế vì nó còn tùy thuộc rất nhiều những yếu tố thuộc về thân chủ lẫn nhà trị liệu. Hơn nữa, trong khi những nhà tâm lý trị liệu tìm cách xác định phương pháp tiếp cận nào là tốt nhất, thì họ đã làm cho thân chủ bị mất đi trách nhiệm và áp đặt lên thân chủ những giá trị của nhà trị liệu. Thay vì thế, nhà trị liệu nên làm việc với thân chủ để giúp họ quyết định xem liệu pháp nào thích hợp nhất đối với những mục đích và giá trị của họ.

XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TÌNH TRẠNG CỦA THÂN CHỦ

Rollo May (1991) cho rằng một lý do hàng đầu khiến thân chủ tìm đến trị liệu hiện nay đó là việc mất đi những huyền thoại vốn là điểm tựa của họ (sustaining myths). Theo May, huyền thoại không phải là những điều sai, mà là những điều không thể chứng minh là đúng. Vì thế, tất cả những định hướng trong tâm lý trị liệu, những tín ngưỡng và thế giới quan, tất cả đều là những huyền thoại.

Ý tưởng này được áp dụng trực tiếp vào hoàn cảnh hậu hiện đại. Mặc dù hầu hết các thân chủ khi bước vào phòng trị liệu đều ít hiểu biết về hậu hiện đại, nhưng nó vẫn gây nên những ảnh hưởng trên đời sống hằng ngày của họ. Việc “giải kiến tạo hậu hiện đại những huyền thoại theo xu hướng hiện đại” (postmodern deconstruction of modern myths) gây nên cảm quan lo âu và mất ý nghĩa đối với nhiều người. Ngay cả khi hậu hiện đại là một xu hướng cải tiến hơn so với xu hướng hiện đại, sự chuyển tiếp này cũng gây nên nỗi lo âu một cách tự nhiên. Tuy nhiên, nỗi lo âu này cũng có thể vẫn tồn tại cả trong địa hạt cá nhân cũng như trong vô thức văn hóa.

Những nhà trị liệu làm việc với các thân chủ trong kỷ nguyên hậu hiện đại nên nhận thức về những ảnh hưởng của xu hướng hậu hiện đại, ngay cả khi những thân chủ của họ là những người nhiệt thành theo khuynh hướng hiện đại (modernist) hoặc “tiền hiện đại” (premodernist). Không ai có thể thoát khỏi những ảnh hưởng của sự chuyển đổi khuôn mẫu sống mạnh mẽ ấy.

HẬU HIỆN ĐẠI, QUYỀN LỰC VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Trong những cách thức tiếp cận trị liệu và tham vấn theo xu hướng hiện đại hoặc tiền hiện đại, nhà trị liệu có một vị thế đặc quyền. Chính nhà trị liệu là người quyết định kết quả trị liệu, định ra cách tiếp cận và dẫn dắt việc trị liệu. Theo nhãn quan này, có một sự chênh lệch đáng kể về mặt quyền lực giữa thân chủ và nhà trị liệu.

Xu hướng hậu hiện đại loại bỏ sự nhấn mạnh vào thứ bậc cao thấp, điều thường được ẩn chứa bên trong các liệu pháp theo xu hướng hiện đại và tiền hiện đại. Ngoài ra, các nhà trị liệu theo xu hướng hậu hiện đại thường tranh thủ các thân chủ để họ trở thành những người cùng làm việc (co-creator & co-facilitator) trong quá trình trị liệu. Tương tự như nhiều phương pháp tiếp cận có xu hướng bảo vệ nữ quyền (feminist approach), cách tiếp cận hậu hiện đại có khuynh hướng nhận diện hệ thống thứ bậc và sự chênh lệch quyền lực dựa trên một kiến tạo xã hội (social construction) hơn là một thực tại tuyệt đối (absolute reality). Vì thế, sự chênh lệch quyền lực vẫn có thể còn được khai thác và trong thực tế vẫn có tiềm năng xảy ra việc khai thác ấy.

Những ảnh hưởng từ các học thuyết về nữ quyền, học thuyết nhân văn và hiện sinh thì ít rõ ràng hơn trong những khái niệm của tâm lý trị liệu hậu hiện đại về quyền lực và thứ bậc. Tất cả các cách tiếp cận này đều thừa nhận rằng sự chênh lệch về mặt quyền lực chắc chắn sẽ phát triển và rằng điều quan trọng là nhà trị liệu cần phải nhận biết chúng, mặc dù vậy, họ khác nhau về quan điểm trong việc làm thế nào để tiếp cận được chúng. Nhiều nhà trị liệu tin rằng một phần của tiến trình trị liệu là phải “giải kiến tạo” (deconstructing) những cấu trúc thứ bậc và quyền lực do con người tạo ra này.

KẾT LUẬN

Xu hướng hậu hiện đại đang làm thay đổi thực tế của ngành tâm lý trị liệu theo nhiều cách thức mà thường chúng bị bỏ qua, không được nhận biết bởi những chuyên viên thực hành. Vì chúng ta vẫn tiếp tục tiến sâu vào kỷ nguyên hậu hiện đại, những ảnh hưởng này sẽ chỉ khiến những nhà trị liệu trở nên vô trách nhiệm nếu họ không hiểu được những thay đổi này.

References

  • Creswell, J. W. (2002). Research design: Qualitative, quantitative, and mixed methods approaches (2nd ed.). Thousand Oaks, CA: Sage.
  • Eid, M. & Diener, E. (Eds.). (2005). Handbook of multimethod research in psychology. Washington, DC: American Psychological Association.
  • Hoffman, L. (2004, August/September). The danger of the “truth.” AHP Perspectives, 22-24.
  • Hoffman, L. (2005). Depth psychotherapy and the empirically supported movement: Critical issues.  Retrieved from the Depth Psychotherapy Network web site: http://www.depth-psychotherapy-network.com/Professional_Section/Empirically/
  • Hoffman_EST_1.htm
  • Hoffman, L., Hoffman, J., Robison, B., & Lawrence, K. (2005, April). Modern and postmodern ways of knowing: Implications for therapy and integration. Paper presented at the Christian Association for Psychological Studies International Conferences, Dallas, TX.
  • Horvath, A. O. & Bedi, R. P. (2002). The allilance. Research summary on the therapeutic relationship and psychotherapy outcome. In J. C. Norcross (Ed.), Psychotherapy relationships that work (pp. 37-69). New York: Oxford University Press.
  • Lambert, M. J. & Barley, D. E. (2002). Research summary on the therapeutic relationship and psychotherapy outcome. In J. C. Norcross (Ed.), Psychotherapy relationships that work (pp. 17-32). New York: Oxford University Press.
  • Levant, R. (2005, Feb). Evidence-based practice in psychotherapy. Monitor on Psychology, 36, 5.
  • May, R. (1991). The cry for myth. New York: Delta.
  • Tashakkori, A. & Teddlie, C. B. (1998). Mixed methodology: Combining qualitative and quantitative approaches. Thousand Oaks, CA: Sage.
  • Thomas, R. M. (2003). Blending qualitative and quantitative research methods in theses and dissertations. Thousand Oaks, CA: Corwin Press.
  • Wampold, B. E. (2001). The great psychotherapy debate: Models, methods, and findings. Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.


Added December, 2006
Never been updated




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.