Tựa đề bài viết đầy đủ:
HIỆN DIỆN TẠI ĐÓ, TRẢI NGHIỆM VÀ TẠO
KHÔNG GIAN CHO MỘT CUỘC ĐỐI THOẠI: BÀN VỀ
CÁCH LÀM VIỆC VỚI TRẺ EM TRONG LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH
PETER ROBER
Nhà tâm lý lâm sàng, nhà trị
liệu gia đình, đào tạo viên liệu pháp gia đình tại Bệnh viện Đại học Leuven
(Louvain), Vương quốc Bỉ.
Nguồn: Journal of Family
Therapy (2008) 30: 465-477
Người dịch: BS NGUYỄN
MINH TIẾN
CLB
Trăng Non, thuộc Hội KH Tâm lý – Giáo dục Tp.HCM
Trong khi hầu hết các tác
giả đều nhất trí về tầm quan trọng của việc huy động sự tham gia tích cực của
trẻ em trong các phiên trị liệu gia đình, rất nhiều nhà trị liệu gia đình đã
“loại trừ” sự tham gia của trẻ em bởi vì họ cảm thấy không thoải mái khi làm việc
với trẻ em. Việc huấn luyện cho các nhà trị liệu gia đình cảm thấy thoải mái
hơn với trẻ em là điều tốt nhưng có lẽ vẫn chưa đủ. Trong bài viết này, tác giả
sẽ trình bày tính phức tạp về chủ đề sự thoải mái của nhà trị liệu trong phiên
trị liệu với trẻ em và gia đình. Trong phần bàn luận về trường hợp của Elly và
mẹ, người đọc cũng sẽ được lưu ý về việc những trải nghiệm có được trong phiên
trị liệu có thể giúp cho nhà trị liệu hiểu được những gì đang diễn ra bên trong
gia đình mà mình đang làm việc.
PHẦN DẪN NHẬP
Nhiều
nhà trị liệu có kinh nghiệm đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bao gồm sự
tham gia của trẻ em trong các phiên trị liệu gia đình. Chẳng hạn như người tiên
phong trong lĩnh vực liệu pháp gia đình, Nathan Ackerman (1970) đã cho rằng liệu
pháp gia đình không thể thực hiện được khi không xảy ra sự trao đổi một cách có
ý nghĩa giữa các thế hệ. Andolfi (1982) cũng đã viết rằng để có thể thực sự hiểu
được lịch sử của một gia đình cũng như hiểu được gia đình đó hiện đang như thế
nào thì nhà trị liệu gia đình phải nói chuyện với toàn thể gia đình, bao gồm cả
trẻ em trong đó. Theo Andolfi, những đứa trẻ có thể cung cấp cho nhà trị liệu
những chỉ báo tốt về bầu khí cảm xúc bên trong gia đình. Ông đề nghị nhà trị liệu
gia đình nên đặt trẻ em (đặc biệt là đứa trẻ mang triệu chứng) vào vị trí như một
“nhà tư vấn” (consultant) hoặc như một
nhà đồng trị liệu (co-therapist): đứa
trẻ khi đó sẽ trở thành “sợi chỉ của Adriadne” giúp dẫn đường cho nhà trị liệu
có thể đi được trong mê cung (Andolfi và cs., 1989; Andolfi, 1995). Ngoài ra,
nhiều vị tiên phong khác về liệu pháp gia đình cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc trẻ em tham gia vào tiến trình trị liệu (Minuchin, 1974; Whitaker và
Keith, 1981). Cuộc nghiên cứu Delphi do Sori và Sprenkle thực hiện năm 2004
cũng cho kết luận chính tương đồng như những phát biểu của các nhà tiên phong về
liệu pháp gia đình: trẻ em nên được tham gia vào các phiên trị liệu gia đình. Đã
có những nghiên cứu kết quả theo kinh nghiệm (empirical outcome research) về hiệu quả của liệu pháp gia đình
trong trị liệu cho trẻ em (ví dụ Carr, 2009), nhưng theo như tôi được biết thì
chưa có nghiên cứu theo kinh nghiệm nào so sánh hiệu quả giữa liệu pháp gia
đình có sự tham gia của trẻ em với liệu pháp gia đình không có trẻ em tham gia.
Có một điểm nổi bật quan trọng được nhận thấy trong các nghiên cứu theo kinh
nghiệm đó là: ngay cả khi có trẻ em hiện diện trong phòng trị liệu, trẻ cũng có
thể đã không tham gia một cách tích cực vào tiến trình trị liệu (Cederborg,
1997). Trong những phiên trị liệu gia đình, trẻ em dường như chỉ được “nói về”
thay vì được mời gọi tham gia trực tiếp vào cuộc đối thoại.
Tiếng nói của trẻ em trong
liệu pháp gia đình
Việc
trẻ em thường được xem như một chủ đề của cuộc đối thoại thay vì đóng vai trò
như những thành viên tham gia tích cực vào cuộc đối thoại cũng ăn khớp với các
kết quả quan sát từ một số tác giả qua đó trẻ em thường bị đặt ra ngoài liệu
pháp gia đình (Zilbach, 1986; Chasin và White, 1989; Carr, 1994; Rober, 1998;
Lind và cs., 2004; Sori, 2006). Korner và Brown (1990) đã khảo sát 173 nhà trị
liệu hôn nhân và gia đình tại Hoa Kỳ và đã phát hiện khoảng 40% nhà trị liệu
gia đình chẳng bao giờ tạo điều kiện cho trẻ em tham gia vào các phiên trị liệu
của họ, và khoảng 31% nhà trị liệu cho trẻ em hiện diện nhưng không thực sự cho
trẻ tham dự tiến trình trị liệu. Nhiều nhà trị liệu hôn nhân và gia đình dường
như chỉ chủ yếu làm việc với các cá nhân hoặc những đôi lứa.
Những
phát hiện trong nghiên cứu của Korner và Brown gây chủ ý hơn cả là về việc
chính các trẻ em cũng xem việc được tham gia các buổi trị liệu là quan trọng.
Đó cũng là điều mà Stith và cs. (1996) đã phát hiện trong nghiên cứu “Tiếng Nói
Của Trẻ Em” của họ, trong đó họ đã phỏng vấn những trẻ em (từ 5 đến 13 tuổi) được
tham gia vào liệu pháp gia đình. Các nhà nghiên cứu muốn xác định những cách
nhìn của trẻ về các trải nghiệm mà trẻ có được qua liệu pháp gia đình. Một
trong những phát hiện nổi trội nhất trong nghiên cứu đó là trẻ em muốn được
tham gia một cách có ý nghĩa vào liệu pháp gia đình. Mặc dù ban đầu trẻ thường
không muốn đến với trị liệu, nhưng với thời gian hầu hết trẻ em đều thấy những
phiên trị liệu là có giá trị. Ngay cả khi trẻ không thực sự tập trung vào việc
trị liệu, trẻ vẫn muốn hiện diện ở đó cùng với bố mẹ. Một phát hiện thú vị khác
đó là những trẻ đó đã nói với những nhà nghiên cứu rằng trẻ càng cảm thấy thoải
mái trong tiến trình trị liệu thì trẻ càng hiểu biết về những gì xảy ra trong
gia đình và về những động cơ nào khiến bố mẹ đã cần đến việc trị liệu. Ngoài
ra, nghiên cứu cũng cho thấy trẻ em muốn tham gia trị liệu theo những cách thức
riêng của trẻ: trẻ không muốn chỉ có “nói”, trẻ còn muốn “làm” một cái gì đó nữa.
Phát hiện này có thể có tính khích lệ đối với những nhà trị liệu trong việc sử
dụng những kỹ thuật định hướng hành động (action-oriented
techniques) khi họ làm việc với trẻ em.
Cảm thấy thoải mái với trẻ
em
Trẻ
em đương nhiên không cần tham gia liệu pháp gia đình vào mọi lúc. Đôi khi cũng
có những lý do chính đáng để nhà trị liệu chỉ làm việc riêng với bố mẹ (Sori và
Sprenkle, 2004). Ví dụ khi nói về chủ đề tính dục hoặc sự thân mật của bố mẹ
thì tốt hơn là nên nói khi không có trẻ em hiện diện. Mặt khác, dường như nhiều
nhà trị liệu cũng có những lý do cá nhân hoặc theo kinh nghiệm khiến họ không
bao gồm trẻ em vào cuộc trị liệu (Andolphi, 1982; Zilbach, 1986; Chasin và
White, 1989; Wachtel, 1994). Vì thế, trong một nghiên cứu của Johnson và Thomas
(1999), 143 nhà lâm sàng thành viên của AAMFT (Hiệp hội Trị liệu Hôn nhân – Gia
đình Hoa Kỳ) đã được khảo sát, trong đó 49,7% các nhà trị liệu gia đình đã loại
trẻ em ra khỏi các cuộc trị liệu do bởi việc cá nhân họ không cảm thấy thoải
mái đối với trẻ em. Những nhà trị liệu nào cảm thấy thoải mái với trẻ em hơn
thì thường dễ mời gọi trẻ tham gia trị liệu nhiều hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy
các nhà trị liệu có khuynh hướng loại ra khỏi cuộc trị liệu những trẻ em nào có
vấn đề bộc lộ ra bên ngoài (chẳng hạn như tăng động hoặc rối loạn ứng xử) hơn
so với những trẻ có vấn đề ẩn chứa bên trong (ví dụ trầm cảm). Johnson và
Thomas (1999) cũng lưu ý: “Những trẻ em hung hăng, bột phát có thể gây thách thức
cao đối với phiên trị liệu. Yêu cầu bố mẹ giao đứa trẻ như thế cho một người giữ
trẻ thì dễ hơn rất nhiều so với việc phải chật vật thực hiện phiên trị liệu với
một đứa trẻ như thế” (trang 121).
Một thách thức
Làm
việc với bất cứ đứa trẻ như thế nào cũng đều là một thách thức khi thực hiện liệu
pháp gia đình. Một số trẻ có thể gây ồn ào và mất trật tự khiến người lớn rất
khó nói chuyện. Một số trẻ khác lại quá im lặng đến mức nhà trị liệu cảm thấy mất
phương hướng, hụt hẫng và bất lực bởi vì loại phương tiện chính yếu của mình (lời
nói) đã trở nên vô dụng. Ngoài ra, không chỉ những đứa trẻ mà chính bố mẹ của
chúng cũng gây nên những căng thẳng cho nhà trị liệu. Bố mẹ (chứ không phải trẻ
em) là những người khởi xướng yêu cầu được trị liệu và đặt ra những kỳ vọng cao
bởi vì họ bị kiệt sức khi đã vô phương hóa giải những phiền muộn về tương lai của
con mình. Đôi khi nhà trị liệu cảm thấy những phụ huynh kia đang kiểm tra cách
thức nhà trị liệu xử lý tình huống đang diễn ra. Bố mẹ của đứa trẻ cũng có thể cảm
thấy “nhẹ lòng” khi nhìn thấy nhà trị liệu thất bại trong việc làm cho trẻ nói
ra, vì thông qua sự thất bại của nhà trị liệu mà họ tìm được bằng chứng cho thấy
họ cũng không đến nỗi đáng trách: “Ngay cả vị chuyên gia này cũng không xử lý nổi
con của tôi”. Ngược lại, một nhà trị liệu rất thành thạo trong việc nói chuyện
và chơi với trẻ em có thể thực hiện những cách thức tiếp túc với trẻ mà chẳng
bao giờ bố mẹ trẻ có thể làm được; khi đó có thể phát sinh các chủ đề nhạy cảm
như là sự khiển trách hoặc sự cạnh tranh nơi bố mẹ. Một sự tiếp xúc tốt giữa
nhà trị liệu và đứa trẻ có thể làm gia tăng sự ngưỡng mộ và thu hút của bố mẹ đối
với nhà trị liệu, đồng thời lại cũng làm mạnh thêm nỗi lo sợ ở bố mẹ vì những kỹ
năng chăm nuôi con hạn chế của họ.
Sự
phức tạp trong việc trẻ em tham gia vào liệu pháp gia đình đã chỉ ra tầm quan
trọng của việc đưa chủ đề này vào trong việc huấn luyện những nhà trị liệu trẻ
tuổi. Sori và Sprenkle (2004) nhận thấy rằng những lĩnh vực có nội dung chuyên
biệt như phát triển trẻ em và tâm bệnh lý trẻ em cần được bao gồm trong quá
trình đào tạo về liệu pháp gia đình. Ngoài ra, các nhà trị liệu gia đình trong quá
trình huấn luyện nên được khuyến khích suy nghĩ một cách có hệ thống và cần biết
rằng trẻ em có thể bị ảnh hưởng bởi các vấn đề của bố mẹ, cũng như bố mẹ có thể
bị ảnh hưởng bởi các vấn đề của con mình. Các chương trình đào tạo về liệu pháp
gia đình phải huấn luyện cho những sinh viên trẻ tuổi những kỹ năng có tính thực
hành chẳng hạn như làm sao để nói chuyện với trẻ em, làm thế nào để thiết kế một
phiên trị liệu theo cách thức giúp trẻ cảm thấy an toàn, làm thế nào để sử dụng
những kỹ thuật nghệ thuật không dùng lời nói (ví dụ như vẽ tranh, sử dụng con rối,
khay cát) vv... Sori và Sprenkle (2004) cho rằng những tính cách như khả năng
vui đùa và tính sáng tạo của nhà trị liệu nên được nhấn mạnh khi huấn luyện liệu
pháp gia đình.
Nhằm
tránh việc trẻ em bị đặt bên ngoài liệu pháp gia đình, điều quan trọng trong huấn
luyện là phải giúp cho thực tập sinh cảm thấy thoải mái khi làm việc với trẻ em
và gia đình. Sori và Sprenkle (2004) khuyến cáo các chương trình huấn luyện nên
tạo cơ hội để người học có thể tiếp thu những trải nghiệm thực tế khi làm việc
với những gia đình có con ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và với các thể
loại vấn đề đa dạng khác nhau. “Sự thoải mái chỉ có thể tiếp nhận được thông
qua sự trải nghiệm và được giám sát tốt” (Sori và Sprenkle, 2004, trang 493). Mặc
dù khuyến cáo này rõ ràng là tốt, tính phức tạp về sự thoải mái khi làm việc với
trẻ em vẫn là một chủ đề phức tạp hơn là người ta vẫn tưởng.
Thoải mái và không thoải
mái
Cũng
có lẽ không hẳn là điều hay nếu chỉ đơn thuần nhắm vào việc gia tăng tối đa mức
độ thoải mái của nhà trị liệu trong quá trình đào tạo. Vì nhiều lý do khác
nhau, chủ đề về mức độ thoải mái của nhà trị liệu gia đình khi làm việc với trẻ
em vẫn là một chủ đề phức tạp.
Điều
trước tiên phải kể đến, nếu nói về cảm giác không thoải mái mà không định rõ loại
cảm giác không thoải mái nào đang được nói đến thì chủ đề vẫn còn được đề cập
quá chung chung. Đó là vì có nhiều loại cảm giác không thoải mái mà nhà trị liệu
có thể trải nghiệm khi họ làm việc với gia đình và trẻ em. Khi đào tạo những
nhà trị liệu gia đình trẻ tuổi, rất cần phải khảo sát chính xác loại khó khăn
nào họ gặp phải khi làm việc với trẻ em: cảm giác tự ngờ vực, lo sợ mình sẽ mất
khả năng kiểm soát, hoặc không thành công trong việc thiết lập mối quan hệ với
trẻ vv... Điều thứ hai là cảm giác không thoải mái khi làm việc với gia đình có
trẻ em xảy ra trong phạm vi trách nhiệm của nhà trị liệu (Nguyên văn: “feeling
discomfort in working with families with children comes with the territory”)
(Wilson, 2005), và thay vì bằng mọi cách tránh né cảm giác không thoải mái, nhà
trị liệu cũng phải dung nạp phần nào cảm giác ấy. Điều thứ ba là, nhà trị liệu
khi làm việc với trẻ em cũng cần có sự thoải mái ở một chừng mực nào đó, thế
nhưng cảm giác quá thoải mái lại có thể chẳng hữu ích chút nào, vì nó có thể dẫn
đến một kiểu trị liệu “an toàn” nhưng lại rất “nghèo nàn” (Nguyên văn: “a safe but sterile kind of therapy”). Có
lẽ để trở thành một nhà trị liệu gia đình hiệu quả, những gì mà một nhà trị liệu
cần đến đó là PHẢI CẢM THẤY AN TOÀN ĐỦ ĐỂ CÓ THỂ TIẾP NHẬN NHỮNG NGUY CƠ.
Wilson (2005, 2007) khuyến cáo rằng để giúp đỡ cho gia đình, nhà trị liệu đôi
khi cần phải rời khỏi khu vực an toàn và ứng tác của bản thân mình. Wilson
(2007) mô tả sự đối diện với hoàn cảnh trị liệu giống như một “sân khấu của các
khả năng” (theatre of possibilities)
và nhà trị liệu gia đình là một nhà trị liệu “ứng tác” (improvisational therapist), người có thể sẽ mạo hiểm đi vào “khu vực
không thoải mái” để gắn kết hiệu quả với gia đình mà mình đang làm việc.
Sau
cùng, việc đó sẽ có lợi nếu nhà trị liệu chú tâm đến cả những cảm giác thoải
mái lẫn không thoải mái của mình. Điều này giúp nhà trị liệu có thể lưu tâm đến
những cảm giác thoải mái và không thoải mái của chính những thành viên bên
trong gia đình, tạo khả năng cho nhà trị liệu có thể gắn kết với gia đình theo
một cách thức – mà theo kiểu nói của Tom Andersen (1987, 1991) – có tính khác
biệt nhưng không quá bất thường (Wilson, 2005). Ngoài ra, cũng sẽ có lợi khi
nhà trị liệu chú tâm đến những trải nghiệm của chính mình trong phiên trị liệu
bởi vì có rất nhiều điều có thể học được từ việc lắng nghe một cách cẩn thận những
cảm giác thoải mái hoặc không thoải mái của chính bản thân mình: Chính xác điều
gì đã làm cho tôi cảm thấy thoải mái trong phiên trị liệu này? Và điều gì đã
làm tôi cảm thấy không thoải mái? Việc phản ảnh một cách thận trọng những trải
nghiệm thoải mái hoặc không thoải mái của chính bản thân mình có thể mở ra
không gian cho việc sử dụng những cảm nhận có được trong phiên trị liệu này như
một “chiếc cầu thấu cảm” (empathic bridge)
nối đến các thành viên bên trong gia đình, tạo nên những sự nối kết mới, tạo
khoảng mở cho những khả năng đối thoại đáng ngạc nhiên và có thể kể ra những
câu chuyện chưa được kể.
Ca
lâm sàng cỦa Elly và ngưỜi mẸ
Ca
lâm sàng này dựa trên sự phân tích các phiên trị liệu đã được ghi hình khi tác
giả làm việc với những đứa trẻ Elly, Art (tên thật đã được thay đổi) và người mẹ
của chúng. Một số chi tiết câu chuyện đã được thay đổi để bảo mật cho gia đình
này. Phân tích genogram cho thấy bố mẹ Elly đã ly hôn và hai trẻ sống với mẹ.
ELLY VÀ MẸ: SỰ TRẢI NGHIỆM
CỦA NHÀ TRỊ LIỆU CÓ VAI TRÒ NHƯ CHIẾC CẦU NỐI
Một
người mẹ đã tiếp xúc với tôi (tác giả) vì bà bận tâm nhiều đến những hành vi có
vấn đề của đứa con gái 8 tuổi của bà, Elly. Trong phiên trị liệu đầu tiên, với
sự hiện diện của người mẹ, Elly và Art, đứa em trai 2 tuổi, chúng tôi đã trao đổi
với nhau rất nhiều chuyện, trong lúc những đứa trẻ tự do khám phá căn phòng làm
việc và chơi với những đồ chơi để trên bàn. Người mẹ kể cho tôi nghe những mối
bận tâm của bà về những hành vi của con gái bà ở nhà. Mẹ nói Elly không phải đứa
bé ngoan, bé không nghe lời khi mẹ yêu cầu bé giúp mẹ ở nhà, bé còn hay bắt nạt
em trai và còn ăn nói thô thục nữa. Hai tháng trước đó, người mẹ đã có lần phải
nhập viện để điều trị chứng trầm cảm. Vào cuối phiên đầu tiên ấy, tôi đã yêu cầu
gia đình ấy rằng mỗi người sẽ chọn mang một thứ gì đó đến vào phiên thứ hai để
giúp tôi có thể hiểu thêm hơn về gia đình họ (thông tin chi tiết hơn về việc
làm này xin xem thêm Rober, 1998).
Vào
phiên trị liệu thứ hai, khi gia đình bước vào phòng trị liệu, tôi để ý thấy mỗi
đứa trẻ mang theo mình một con gấu bông, còn người mẹ thì không mang theo gì cả.
Tôi
hỏi ai muốn dùng món đồ mà mình mang đế để giới thiệu về bản thân mình? Người mẹ
ngay lập tức quay sang Elly và bắt em nói trước. Elly không chịu nhưng bà mẹ cứ
khăng khăng bắt ép nên em cũng đã bắt đầu nói chuyện với con gấu bông của mình.
Tương tác giữa Elly và mẹ, dù diễn ra rất ngắn, cũng đã đập ngay vào mắt tôi.
Thông thường thì người mẹ không ép con mình nói chuyện theo cách như thế. Ngược
lại, hầu hết cha mẹ thường chấp nhận phần nào sự ngần ngại của con mình, bởi vì
nói cho cùng thì trị liệu là một lĩnh vực rất xa lạ đối với con trẻ. Thông thường,
nếu như trẻ lưỡng lự không muốn nói thì mẹ sẽ là người xung phong nói trước, bằng
cách đó mẹ sẽ có thể gánh lấy trước những rủi ro, cho phép đứa con có thời gian
và không gian để quan sát những gì xảy ra trong phiên trị liệu.
Tuy
nhiên, người mẹ này đã thúc ép con gái mình nói trước. Tôi cảm thấy hơi bực bội
với người mẹ, nhưng tôi cũng đã tập trung được vào Elly khi em nói rằng em
thích chơi với con gấu bông và rằng con gấu bông rất quan trọng đối với em.
Trong khi Elly nói, tôi nhận thấy người mẹ chẳng hề để tâm đến những gì con gái
nói. Người mẹ mãi lo nói chuyện với Art, em trai của Elly, lúc này cứ đi đi lại
lại trong phòng, bà cũng chẳng buồn tìm đến chiếc ghế để ngồi nữa. Bà mẹ chẳng
có lần nào quay lại nhìn Elly trong khi cô bé đang nói về con gấu bông của
mình. Sự bực bội của tôi đối với người mẹ gia tăng. Cùng lúc đó, tôi chợt cảm thương
hơn với Elly và tự nhiên cảm thấy mình phải cố gắng để bù đắp lại cho cô bé
đang thiếu sự quan tâm của mẹ bằng cách biểu lộ một sự chú tâm đặc biệt đối với
những gì mà Elly đang nói. Tôi đã thực sự lắng nghe Elly một cách toàn tâm khi
em kể cho tôi nghe rằng em đã ôm ấp con gấu của em như thế nào, và tôi cũng hỏi
Elly đủ mọi thứ chuyện linh tinh về con gấu bông để cho em thấy rằng tôi vẫn
đang lắng nghe. Elly nói con gấu bông rất quan trọng đối với em và em thường đặt
gấu lên giường bên cạnh em khi em đi ngủ.
Elly
nói thêm “Trừ những lúc em cháu không tìm thấy con gấu bông của nó”.
Tôi
hỏi “Cháu nói vậy nghĩa là sao?”
“À,
em cháu mà không có gấu bông thì nó sẽ không chịu đi ngủ. Vì vậy khi em cháu
không tìm thấy gấu bông, cháu phải đưa nó con gấu của cháu thì nó mới chịu ngủ”,
Elly giải thích.
Điều
này đã làm tôi suy nghiệm trong khi thực hiện cuộc đối thoại bên trong (inner conversation) của mình rằng cô bé
này dường như rất lưu tâm và hay giúp đỡ em trai mình. Tôi lưu nhớ trong trí
mình về điều đó bởi vì điều đó nằm ra bên ngoài những tính cách của cô bé theo
như cách mô tả ban đầu của người mẹ vào phiên trị liệu đầu tiên khi bà cho rằng
cô bé là một đứa trẻ có vấn đề. Tôi tự hỏi liệu rằng người mẹ có thực sự hiểu
biết về đứa con của mình hay không? Tôi cũng tiếp tục suy nghiệm rằng liệu sau
cùng người mẹ này có thể hiểu biết con gái của mình không nếu như bà chẳng hề để
tâm đến những điều mà Elly đang nói, mà những điều ấy là rất quan trọng đối với
cô bé?
Rồi
sau đó có một điều kỳ lạ đã xảy ra. Art, đứa em trai, đã đặt con gấu bông của
mình lên một chiếc ghế trống. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi Art đi đến và ngồi
lên một chiếc ghế trống khác đối diện với con gấu bông của mình. Tôi im lặng
quan sát cậu bé vì đó là lần đầu tiên trong buổi cậu chịu ngồi thoải mái trên
ghế. Thế rồi Elly rời khỏi ghế, đứng lên, cầm con gấu bông của em (lớn hơn con
gấu của Art) đặt lên cùng chiếc ghế với con gấu bông của Art. Elly kéo cánh tay
con gấu lớn quàng qua vai của con gấu nhỏ. Tôi bị ấn tượng bởi vì tư thế đó giống
như một cái ôm đầy yêu thương và một lần nữa tôi lại suy nghiệm thêm về Elly –
em thật biết lưu tâm và giúp đỡ em mình biết bao. Khi Elly trở về ghế ngồi thì
Art lại đứng lên, đi về phía chiếc ghế có đặt hai con gấu bông. Không nói một lời
nào, Art cầm con gấu bông của Elly lên, thả rơi xuống sàn nhà, rồi đặt con gấu
của mình ngồi lại lên ghế. Bằng giọng vui đùa, Elly kêu lên phản đối “Hey!”. Cô
bé vừa mỉm cười vừa đứng lên, cầm lấy con gấu của Art rồi, đến lượt mình, cô bé
cũng thả rơi con gấu của cậu em xuống sàn nhà và đặt con gấu của mình trở lại
lên ghế. Ngay lúc ấy, người mẹ ập đến và nói “Elly, không được bắt nạt em”.
Lúc
ấy tôi vẫn đang ngồi quan sát những tương tác giữa hai đứa trẻ và điều đập vào
trí tôi một cách đặc biệt đó là lời nhận xét của người mẹ “đừng bắt nạt em”. Lời
nói của người mẹ khiến tôi thấy khó chịu và bực bội. Tôi tái cấu trúc lại cảnh
tượng này trong cuộc đối thoại bên trong của tôi như sau: Trước tiên, Elly đã
làm một việc rất nhiệt tình và lưu tâm đến em trai bằng cách đặt con gấu bông của
mình bên cạnh để dỗ dành con gấu bông của Art. Việc làm này dường như chẳng được
cả mẹ lẫn em trai cô chú ý đến. Rồi đến khi Elly và em trai đang tranh giành
nhau trong lúc chơi, thì người mẹ đang buông lời khiển trách cô chị. Dường như
thể rằng người mẹ chỉ cho lời nhận định về Elly khi cô bé làm một việc gì đó
“không đúng” – ít nhất là theo cách nhìn của người mẹ. Tôi đã cảm thấy rất
không thoải mái với cách thức mà phiên trị liệu đang diễn ra. Trong cuộc đối
thoại bên trong, tôi thấy bản thân mình đang phản đối và chỉ trích người mẹ, đồng
thời tôi tự nhủ đây không phải là điều mà một người mẹ tốt làm cho con. “Vì sao
bà mẹ đã không thừa nhận những việc có tính chất xây dựng mà Elly đang làm
trong gia đình bà? Tại sao bà chỉ chú ý đến những việc làm “sai” của con gái?”
Tôi thật sự bực bội, và tôi muốn bảo vệ Elly trước bà mẹ có thái độ đối xử bất
công ấy.
Tôi
không biết tại sao, nhưng vì lý do nào đó ngay lúc ấy, tôi đã trở nên nhận thức
về điều mà tôi đang trải nghiệm trong phiên trị liệu: Tôi nhận ra rằng mình
không thực sự đã thấu cảm với người mẹ, trong khi cùng lúc đó tôi lại dành nhiều
sự ngưỡng mộ cho thái độ tử tế của Elly. Tôi thực sự thú nhận rằng mình đã động
lòng trắc ẩn trước cô con gái. Tôi nhận ra rằng nếu như tôi không thận trọng,
tôi có thể đã bắt đầu hỏi, trả lời hoặc bình phẩm với những điều xác định nên cảnh
tượng đơn giản mà tôi đang thấy trước mắt về gia đình này: Một bên là một người
mẹ không tốt và bên kia là một đứa trẻ ngây thơ đang cần sự lưu tâm của mẹ. Sau
một chút suy ngẫm (Chú thích: Tác giả
dùng từ “reflection” trong “đối thoại bên trong với nghĩa “suy ngẫm”, “tự phản ảnh”
– N.D.), tôi nhận thấy rằng hình ảnh cô bé Elly đang cần đến sự quan tâm của
mẹ đã thôi thúc tôi, mời gọi tôi đảm nhận lấy vai trò của một người phụ mẫu tốt
trong cái kịch cảnh quan hệ (relational
scenario) đang diễn ra trong phiên trị liệu. Vâng thực vậy, tôi đã đảm nhận
vai trò của một phụ mẫu tốt khi tôi cố gắng bù đắp lại sự quan tâm mà tôi nghĩ
là Elly bị thiếu thốn. Tôi cũng thấy thoải mái hơn trong vai trò phụ mẫu tốt ấy,
cảm thấy mình hợp lý khi can thiệp vào gia đình ấy, khi đang cố gắng lấp trám
vào những chỗ bị khiếm khuyết, mà không nhận ra mình đã tranh lấy vị trí mà vốn
là của mẹ Elly, người mà giờ đây đã ở vào vị trí một phụ mẫu tồi. Thật vậy, tôi
cũng nhận ra rằng tôi đã đứng giữa Elly và mẹ của cô bé, tách họ xa nhau ra và
có khả năng kéo dài bất tận những gì đã không ổn trong quan hệ giữa họ với
nhau.
Tôi
cũng đã ngạc nhiên với những phản ảnh có tính tiêu cực của chính mình, và một
cách trung thực, tôi đã tự thất vọng với chính mình – Tôi cũng thường tự hào
mình là một nhà trị liệu có tính xây dựng khi chú tâm vào các đối thoại trao đổi
với các thân chủ của mình. Rồi tôi quyết định phải thay đổi “giai điệu” của
mình, bắt đầu đặt ra những câu hỏi có tính xây dựng hơn để dần dần tìm đến những
khả năng và nguồn lực từ người mẹ. Tôi muốn sửa chữa lại cái hình ảnh về người
mẹ có tính bất công mà trước đó tôi đã hiểu một cách đơn giản đến mức thái quá
và tôi cũng muốn tìm cách chạm dần đến hình ảnh một người mẹ có khả năng yêu thương
con bên trong bà ấy.
Vì
thế tôi bắt đầu mời gọi người mẹ kể về những khoảnh khắc khi mối quan hệ diễn
ra tốt đẹp giữa bà và con gái bà và những lúc mà bà đánh giá cao về con gái. Đầu
tiên, người mẹ vẫn biểu lộ vẻ bực bội với Elly, và vẫn kể về những câu chuyện
liên quan đến các vấn đề về hành vi của Elly. Nhưng rồi, dần dần, những câu
chuyện khác có tính tích cực hơn bắt đầu được đề cập đến: những lúc Elly giúp đỡ
mẹ, những lúc Elly chăm sóc em trai và những lúc Elly và mẹ có thể vui thú bên
nhau. Những câu chuyện này đã xác định rằng người mẹ, dù vẫn luôn bận tâm và bực
bội về Elly, vẫn thực sự có quan tâm đến cô bé và rằng hai mẹ con thực sự vẫn
yêu thương nhau rất nhiều.
Điều
thú vị là, vào phiên trị liệu thứ tư, khi tôi tiếp chuyện riêng với người mẹ,
tôi đã ấn tượng với những điều mà người mẹ kể cho tôi nghe về lịch sử đời bà mà
những điều ấy dường như đã có sự vang vọng (resonate)
với những điều tôi trải nghiệm được trong phiên trị liệu thứ hai. Chẳng hạn như
việc có rất nhiều sự tương tự giữa tuổi thơ của bà mẹ và tuổi thơ của Elly. Người
mẹ, giống như Elly, khi lên 8 tuổi, bà cũng đã phải chăm sóc cho một người mẹ bị
trầm cảm. Bà mẹ nói: “Tuy vậy, mẹ tôi đã chẳng bao giờ biết rằng tôi yêu bà biết
bao. Bà cũng chẳng bao giờ thừa nhận rằng tôi đã làm biết bao nhiêu việc cho
bà”.
Chúng
tôi nói chuyện về nỗi bận tâm của mẹ Elly về chính người mẹ của bà, về những
cách thức mà mẹ Elly, khi chỉ là một đứa trẻ, phải chăm sóc cho người mẹ của
bà. Rồi bà nói: “Giờ đây tôi hiểu rằng Elly cũng đang trải qua những chuyện như
tôi đã từng trải qua lúc còn nhỏ”.
Đến
cuối phiên trị liệu, tôi ngạc nhiên khi người mẹ bắt đầu khóc và nói rằng mẹ của
bà đã tự sát khi bà lên 8 tuổi. Bà kể cho tôi nghe câu chuyện ấy. Lúc đó, chỉ
có bà và mẹ mình sống chung với nhau. Một hôm, khi bà từ trường trở về nhà, bà
đã phát hiện mẹ mình trong phòng ngủ và đã dùng súng tự sát.
Bà
nói thêm: “Trong suốt những ngày tháng chăm sóc cho mẹ, tôi đã cố gắng giữ cho
bà có thể sống, nhưng rõ ràng là tôi đã thất bại”.
Sau
khi kể cho tôi nghe xong câu chuyện này, người mẹ nói bà không muốn Elly có một
tuổi thơ đau buồn giống như bà đã từng có. Giờ đây cái hình ảnh về một người mẹ
vô tâm và bất công chỉ còn là một ký ức mờ xa, và thay vì nói về những vấn đề về
hành vi của Elly, chúng tôi chuyển sang nói về cách thức làm thế nào để người mẹ
có thể giúp đỡ cho Elly có được một tuổi thơ hạnh phúc hơn.
BÀN LUẬN
Ca
lâm sàng về Elly và mẹ, như đã được kể ra trong bài viết này, đặt trọng tâm vào
những trải nghiệm của nhà trị liệu, kịch cảnh có tính tiêu cực mà nhà trị liệu
có nguy cơ bị mắc mứu vào và những cơ hội mà nhà trị liệu nắm bắt được để có thể
mời gọi thân chủ kể ra những câu chuyện mới hơn và có tính xây dựng hơn trong
phiên trị liệu.
- Trải nghiệm của nhà trị liệu: Nhà trị
liệu cảm thấy ngày càng bực bội với người mẹ, động lòng trắc ẩn đối với
Elly, cố gắng mang đến cho cô bé những gì mà người mẹ đã không cho cô.
- Sự nguy hiểm của việc bị mắc mứu vào
một kịch cảnh có tính tiêu cực: Những trải nghiệm của nhà trị liệu sẽ thúc
đẩy nhà trị liệu có khuynh hướng bảo vệ cho Elly và phê phán đối với người
mẹ. Nhà trị liệu bị nghiêng theo chiều hướng đảm nhận vai trò của một phụ
mẫu tốt, bắt đầu làm thế mà không hề nhận ra cách làm ấy có thể gây nên những
hệ quả tiêu cực như thế nào. Nếu nhà trị liệu tiếp tục góp phần theo cách
như thế, theo kịch bản bảo vệ, quy lỗi và phản bác, thì có thể sẽ tiếp tục
kéo dài những mô hình ứng xử tiêu cực mà gia đình này có lẽ đã mắc mứu
vào.
- Những cơ hội: Nhà trị liệu nhận ra mối
nguy nêu trên và bắt đầu thực hiện việc sửa chữa. Ông nắm bắt lấy cơ hội
và đặt ra những câu hỏi về những điều tích cực khi người mẹ chăm con và về
những khoảnh khắc tốt đẹp mà Elly có được cùng với người mẹ. Việc làm này
mở ra khoảng không gian cho những câu chuyện mới liên quan đến tình yêu
thương và sự chăm sóc bên trong gia đình này, cùng những điều tốt đẹp
trong quan hệ giữa mẹ và con gái. Hơn nữa, những câu chuyện này lại gợi
lên câu chuyện về sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa quan hệ của người mẹ
Elly với người mẹ của bà trong gia đình gốc với mối quan hệ của Elly với mẹ
trong hiện tại.
Cách
phân tích trải nghiệm và vị thế của nhà trị liệu trong phiên trị liệu gia đình
như trên dựa theo một mô hình gọi là Mô hình EDO: Mô hình Trải nghiệm – Mối
nguy – Cơ hội (Experience-Danger-Opportunity)
(Rober). Mô hình EDO có ý nghĩa là đã “bắc cầu” nối qua khoảng trống ở giữa việc
thực hành liệu pháp gia đình (trị liệu, giám sát, huấn luyện) với việc nghiên cứu
về thực hành cuộc đối thoại bên trong của nhà trị liệu mà tôi đã tiến hành
(Rober, 1999, 2002, 2004, 2005; Rober và cs., 2008). Mô hình này đề xuất rằng
nhà trị liệu cần phải nhạy cảm đối với những trải nghiệm của chính mình trong
phiên trị liệu, phải cẩn thận để ý kỹ những điều gì có tính chất âm thầm mời gọi
mình kết nối với những thành viên gia đình theo một kịch cảnh quan hệ thiếu
tính xây dựng, và sau cùng có thể khám phá những cơ hội có thể thúc đẩy phiên
trị liệu hướng đến những cách thức mới có tính xây dựng hơn. Mặc dù mô hình EDO
là một mô hình nói chung tập trung vào trải nghiệm của nhà trị liệu khi thực
hành liệu pháp gia đình, mô hình này cũng vô cùng hữu dụng khi làm việc với những
trẻ em trong các gia đình. Nhà trị liệu được mời gọi tham gia vào kịch bản quan
hệ của gia đình với một vai trò mà thường thì vai trò đó sẽ phản ảnh nhiều điều
– cho đến lúc đó – rất khó nói ra trong gia đình ấy (Nguyên văn: “The role the therapist is invited to play in
the family’s relational scenario often reflects a lot of what – as yet – is
difficult to talk about in the family”). Như đã minh họa trong trường hợp
Elly và mẹ, những trải nghiệm không thoải mái của nhà trị liệu khi ở trong vai
trò này có thể mang lại cho nhà trị liệu một trải nghiệm cận cảnh (firsthand experience) về một số điều mà
các thành viên gia đình đang trải qua. Kinh nghiệm lâm sàng đã dạy cho tôi rằng
những trải nghiệm cảm xúc mạnh mẽ mà nhà trị liệu có được trong phiên trị liệu
– những trải nghiệm khiến thúc đẩy nhà trị liệu hướng đến việc đảm nhận một nhiệm
vụ tích cực trong kịch cảnh quan hệ của gia đình ấy, thường có thể giúp kết nối
nhà trị liệu với những tầng sâu chưa được nói đến của những điều mà đứa trẻ có
vấn đề đang trải qua trong gia đình ấy. Vì thế nếu nhà trị liệu dám nhận lấy
nguy cơ của việc dung nạp những trải nghiệm của chính mình trong phiên trị liệu
và thành công trong việc phản ảnh chúng (thay vì bị chúng “kích hoạt”), khi đó
những trải nghiệm ấy có thể trở thành một “chiếc cầu có tính thấu cảm” (empathic bridge) hướng đến sự thông hiểu
tốt hơn về những gì đang diễn ra bên trong gia đình. Ngoài ra, những trải nghiệm
ấy có thể truyền cảm hứng để nhà trị liệu có thể đặt ra những câu hỏi giúp mở
ra không gian cho những cuộc đối thoại trong sáng hơn và có khả năng gây ngạc
nhiên giữa các thành viên gia đình với nhà trị liệu, cũng như giữa các thành
viên gia đình với nhau, thậm chí giữa các thành viên gia đình với bối cảnh xã hội
xung quanh họ.
KẾT LUẬN
Trong
khi hầu hết các tác giả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc huy động sự tham
gia tích cực của trẻ em vào các phiên trị liệu gia đình, có khá nhiều nhà trị
liệu gia đình đã đặt trẻ em bên ngoài quá trình trị liệu bởi họ cảm thấy không
thoải mái khi làm việc với trẻ em. Việc huấn luyện cho các nhà trị liệu trở nên
thoải mái hơn khi làm việc với trẻ em là một ý tưởng hay, nhưng có lẽ vẫn chưa
đầy đủ.
Trong
bài viết này tôi đã nêu lên tính phức tạp trong chủ đề về tính thoải mái của
nhà trị liệu trong phiên trị liệu. Tôi cũng đã lưu ý những ai đang thực hành trị
liệu rằng cách thức mà chúng ta cảm thấy thoải mái hay không thoải mái trong
phiên trị liệu có thể giúp chúng ta hiểu được một điều gì đó từ những sự việc
đang diễn ra bên trong gia đình mà chúng ta đang làm việc. Trong phần bàn luận
về ca của Elly và mẹ, tôi cũng đã giới thiệu một cách tóm tắt mô hình EDO như một
công cụ thực hành đơn giản để những nhà trị liệu có thể phát huy khả năng sử dụng
những trải nghiệm của chính mình trong khi họ làm việc với những trẻ em trong
các gia đình.
LỜI CẢM ƠN
Bài
viết này được dựa trên một bài giảng được trình bày tại Hội nghị EFTA-AFT tại
Glasgow, Anh Quốc, tháng 10-2007. Chân thành cảm ơn Jim Wilson đã giúp đỡ trong
việc thực hiện bài viết này.
PETER ROBER
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.