Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017

MỘT SỐ GIẢ THUYẾT VỀ SỰ NGẬP NGỪNG VÀ CÁC BIỂU HIỆN KHÔNG LỜI TRONG THỰC HÀNH LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH

Nguyên tác: PETER ROBER
Nhà tâm lý lâm sàng, nhà trị liệu gia đình, đào tạo viên liệu pháp gia đình tại Bệnh viện Đại học Leuven (Louvain), Vương quốc Bỉ.
Journal of Family Therapy (2002) 24: 187-204
Người dịch: BS NGUYỄN MINH TIẾN


PETER ROBER

Khi thân chủ tìm đến với việc trị liệu, họ có những câu chuyện muốn kể. Trong quá trình đối thoại trị liệu (therapeutic conversation), thân chủ thường xuyên thực hiện việc lựa chọn điều gì họ muốn kể ra và điều gì họ muốn giữ lại không nói ra. Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung nói về “vùng giáp ranh” giữa những điều đã được nói và những điều chưa được nói, và đề xuất ba giả thuyết về thái độ ngập ngừng khi nói của thân chủ trong các phiên trị liệu gia đình. Trong các giả thuyết này, sự ngập ngừng được sử dụng như một ẩn dụ (metaphor) để mang đến những ý nghĩa cho các phát biểu không lời của thân chủ, và việc này được thực hiện theo một cách thức sao cho có một khoảng không gian được mở ra để đón nhận một cách trân trọng những câu chuyện mà cho đến lúc đó vẫn chưa được kể. Thật hữu ích khi ta xem các phát biểu không lời của thân chủ như là những thái độ ngập ngừng trước khi dấn thân vào cuộc đối thoại, và cũng sẽ hữu ích khi sử dụng những phát biểu không lời này, theo cách suy nghĩ của Tom Andersen (1995), như là điểm khởi đầu cho một cuộc đối thoại đầy trân trọng với gia đình về những lý do chính đáng khiến họ không nói ra những chuyện như thế. Việc này không chỉ giúp tạo nên không gian cho những câu chuyện đến lúc đó vẫn chưa được kể, mà còn giúp nhà trị liệu thiết lập nên một mối quan hệ hợp tác có tính trị liệu với gia đình mà mình đang làm việc. Những ý tưởng này sẽ được minh họa qua một số trường hợp lâm sàng.

PHẦN DẪN NHẬP

Khi thân chủ tìm đến việc trị liệu, họ có những câu chuyện muốn kể. Tuy nhiên, trong các cuộc đối thoại trị liệu, cũng có những câu chuyện không được kể. Một số chuyện không được kể bởi vì thân chủ thấy chúng không thích hợp với những mối bận tâm dẫn họ đến với việc trị liệu. Một số chuyện khác có thể thích hợp nhưng họ lại thấy khó nói, chẳng hạn như khi thân chủ nhận thấy bối cảnh đối thoại không an toàn để họ có thể kể câu chuyện ấy, đặc biệt là những câu chuyện rất dễ gây tổn thương cho họ, những câu chuyện gây ra sự ngờ vực, tội lỗi, xấu hổ và đau đớn. Rogers và cs. (1999) đã nhận ra rằng có rất nhiều chuyện không được nói đến ở nhiều mức độ khác nhau: “Từ chuyện chưa được kể (đơn giản là vì chưa nói đến hoặc đã bị quên đi), cho đến chuyện không thể kể ra (những chuyện khó nói đến nhưng lại có thể biểu lộ một cách có hàm ý qua các thái độ như phủ nhận, xét duyệt lại, lãng tránh hoặc giữ im lặng), và thậm chí là những chuyện không thể nhắc đến (những chuyện có thể khơi ra một sự nguy hiểm hoặc như một điều cấm kỵ)” (tr.91-92). Griffith và Griffith (1994) cho rằng trong quá trình đối thoại, thân chủ thường quyết định chuyện gì được kể và chuyện gì giữ lại trong im lặng: một sự bảo vệ thường xuyên của thân chủ ngăn họ không bộc lộ những câu chuyện mà họ chỉ thấy an toàn khi chúng được đặt trong những cuộc đối thoại bên trong có tính riêng tư” (Griffith và Griffith, 1994: 40). Quá trình chọn lọc này biểu lộ ra bên ngoài khi thân chủ trở nên ngập ngừng trước khi nói. Một thái độ ngập ngừng có thể được thể hiện không chỉ bằng một sự im lặng kéo dài mà còn có thể bằng những dấu hiệu không lời từ thân chủ: một cái liếc mắt, một tiếng thở dài, một khoảng nghỉ trong mạch văn đang nói, một sự chuyển dịch tư thế trên ghế ngồi, vân vân... Thường thì đây chỉ là những dấu hiệu không lời lướt thoáng qua khiến nhà trị liệu nếu không chú tâm một cách đầy đủ thì cũng có thể bỏ qua. Tuy nhiên, những khoảnh khắc ngập ngừng như thế là rất quan trọng, bởi vì đó là lúc thân chủ lượng giá về bối cảnh đối thoại lúc đó có an toàn hay không đối vối tính mẫn cảm của câu chuyện mà họ sắp kể ra.

Trong bài viết này, tôi sẽ nêu tầm quan trọng của việc thân chủ ngập ngừng trước khi nói và nhà trị liệu có thể sử dụng sự ngập ngừng đó như một công cụ quan trọng giúp mở ra khoảng không cho những câu chuyện chưa được kể. Tôi sẽ đề xuất ba giả thuyết mà tôi thấy hữu ích cho tôi khi làm việc với các gia đình.

  1. Thân chủ thể hiện sự ngập ngừng khi nói ra những câu chuyện chủ yếu thông qua những cách thức không lời.
  2. Thân chủ thường có những lý do chính đáng để ngập ngừng. Sự ngập ngừng của họ thường cho thấy họ có những câu chuyện quan trọng chưa được nói.
  3. Trong các phiên trị liệu gia đình, trẻ em thường là những người thể hiện những sự ngập ngừng này bởi vì các em là những người dễ mẫn cảm nhất đối với những mối nguy có thể có bên trong gia đình.

Mục đích của bài viết này là nhằm ghi nhận sự góp phần có tính xây dựng mà các giả thuyết này có thể mang đế cho việc thực hành liệu pháp gia đình, đặc biệt trong việc tạo cơ hội giúp thiết lập mối quan hệ hợp tác trị liệu với thân chủ và trong việc giúp mở ra khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KỂ VÀ NHỮNG CUỘC ĐỐI THOẠI

Anderson và Goolischian (1988) cho rằng công việc của nhà trị liệu chính là lắng nghe những câu chuyện của thân chủ và mở ra khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa chuyện đã được kể và chuyện chưa được kể không phải là điều đơn giản. Ngược lại, đó là một mối liên hệ động năng (dynamic) và phức tạp khi mà điều được nói ra chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh của điều chưa được nói (Rogers và cs., 1999), và khi điều được nói đồng thời vừa như được bộc lộ vừa như bị che đậy (Lakoff và Johnson, 1980; Billig, 1997). Trong bài viết này, tôi muốn tập trung vào khu vực giáp ranh giữa điều đã được nói và điều chưa được nói. Thật vậy, mặc dù lời nói của thân chủ có những lúc diễn ra rất hối hả trong khi đối thoại, nhưng cũng vẫn có những lúc thân chủ ngưng lại, chọn lựa nói gì và không nói gì.

TRƯỜNG HỢP GIA ĐÌNH VANSTEEN

Tôi đã nói chuyện với một gia đình, trong đó Kurt, người cha, đã trải qua một cơn đau tim nặng đe dọa tử vong trước đó vài tháng. Kể từ lúc đó, Kurt trở nên trông rất già nua và rất sợ phải sống tiếp. Người mẹ, Nancy, kể cho tôi nghe về những thay đổi mà đợt bệnh ấy đã gây ra cho gia đình bà. Bà cũng nêu ra những ảnh hưởng mà việc ấy đã gây ra cho Sid, đứa con trai duy nhất của họ.

Rồi bà nói: “Tuần sau sẽ có thêm một cuộc kiểm tra sức khỏe cho Kurt”, vừa nói bà vừa liếc nhìn sang chồng, rồi im lặng. Sự im lặng chỉ diễn ra trong khoảng một, hai giây, nhưng cũng đủ khiến tôi nhận ra rằng Nancy ngập ngừng khi muốn nói tiếp câu chuyện của bà.

Điều đã diễn ra trên đây cho thấy một việc khá thường gặp đó là thân chủ thường ngừng nói khi họ ngập ngừng trước khi nói tiếp. Tom Andersen (1995) cho rằng khi thân chủ ngập ngừng, dường như họ đang chuyển đổi qua lại giữa sự “đối thoại bên ngoài” (outer conversation) và sự “đối thoại bên trong” (inner conversation). Sự im lặng khi đó là biểu hiện của những phản ảnh hoặc suy ngẫm bên trong (inner reflection) qua đó thân chủ tìm kiếm những cách thức tốt nhất để thể hiện bản thân ra bên ngoài (Andersen, 1995). Cùng lúc đó, việc ngưng nói này cũng tạo nên một khoảng không mà qua đó, bằng cách thực hiện cuộc đối thoại bên trong (Rober, 1999), thân chủ sẽ quyết định điều gì được nói và điều gì cần giữ im lặng (ít nhất là cho đến lúc đó) (Griffith và Griffith, 1994). Thân chủ tự hỏi với bản thân: “Mình sẽ nói điều này chứ, với nhà trị liệu này, ngay lúc này, trong phiên trị liệu này?”. Với ý nghĩa đó, sự ngưng nói có thể được xem là thái độ ngập ngừng khi nói.

Như đã minh họa trong trường hợp của Kurt, Nancy và Sid, một sự ngập ngừng thường được thể hiện bằng cách thức không lời. Việc này có thể được hiểu nếu như sự ngập ngừng được quan niệm như là một sự thương lượng giữa hai động thái: một là nói ra câu chuyện và hai là giữ lại không nói. Sự thương lượng này sẽ được thể hiện thông qua cách thức không lời. Các biểu hiện không lời đôi khi rất tinh tế và dễ bị bỏ qua nếu nhà trị liệu không chú tâm một cách đầy đủ. Việc chú tâm đến những biểu hiện không lời vốn đã là một việc hiển nhiên trong thực hành liệu pháp gia đình, nhưng kể từ khi những ẩn dụ bằng lời (narrative metaphors), chẳng hạn như câu chuyện kể và cuộc đối thoại, được dùng để làm nền tảng nhận thức luận (epistemological foundation) cho việc thực hành lâm sàng, thì tầm quan trọng của giao tiếp không lời có nguy cơ bị xem nhẹ trong liệu pháp gia đình. Thật vậy, việc sử dụng những ẩn dụ bằng lời, như những “metaphor to live by” (Lakoff và Johnson, 1980), đã có tác dụng mời gọi nhà trị liệu hướng sự chú tâm của mình vào những câu từ, giọng nói và những câu chuyện. Hậu quả là họ chỉ giới hạn lĩnh vực nghiên cứu của họ vào những chuyện được “nói ra”, còn những thông điệp không lời thì đã bị bỏ lại trong khoảng mờ mịt không được hiểu.

NHỮNG THÔNG ĐIỆP KHÔNG LỜI BỊ CHE KHUẤT

Điều này có lẽ cần một chút giải thích thêm. Khái niệm “metaphor to live by” được mô tả lúc ban đầu bởi Lakoff và Johnson (1980). Chủ yếu dựa trên những bằng chứng về ngôn ngữ học, Lakoff và Johnson đã cho rằng ẩn dụ không đơn thuần chỉ là sự tô vẽ về mặt thơ văn hoặc tu từ, mà còn như là một thành phần trong ngôn ngữ mà từ đó chúng ảnh hưởng lên trên cách thức chúng ta nhận biết, suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, các tác giả này còn nêu ra khái niệm về “sự hệ thống hóa có tính ẩn dụ” (metaphorical systematicity). Với khái niệm này, họ có ý nói rằng một ẩn dụ luôn luôn nêu bật lên một khía cạnh nào đó trong trải nghiệm của chúng ta, và để lại một khía cạnh khác của trải nghiệm trong sự mơ hồ khó hiểu. Chẳng hạn như trong trong liệu pháp gia đình, ẩn dụ “hệ thống” nêu bật lên mối tương tác giữa các thành viên trong gia đình, nhưng nó lại làm lu mờ đi các khía cạnh như tính ngẫu nhiên của các sự kiện xảy ra trong gia đình, hoặc mức độ chủ quan của người quan sát khi phân tích hệ thống (Rosenblatt, 1994). Một ví dụ khác đó là “ẩn dụ điều khiển học” (cybernetic metaphor), một mặt, có thể giúp chúng ta nhìn thấy sự tuần hoàn và những vòng cung phản hồi (feedback loop) bên trong đời sống gia đình, nhưng mặt khác, lại che khuất các khía cạnh như trách nhiệm cá nhân và sự mất quân bình về quyền lực. Với cách thức này, mọi ẩn dụ đều làm “sáng lên” một phần trải nghiệm của chúng ta và đồng thời để lại một phần khác của trải nghiệm ở trong bóng tối.

Nếu chúng ta chấp nhận những ý tưởng của Lakoff và Johnson (1980), cũng sẽ hợp lý khi ta đặt ra câu hỏi: Các ẩn dụ bằng lời (narrative metaphors) liệu có thể che khuất điều gì khi chúng ta sử dụng chúng làm nền tảng nhận thức luận trong liệu pháp gia đình? Minuchin (1998) đã cố gắng trả lời câu hỏi này trong một bài viết có nhan đề “Gia đình ở đâu trong liệu pháp gia đình dựa trên chuyện kể?” (Where is family in narrative family therapy?), và ông cho rằng việc sử dụng các ẩn dụ bằng lời trong liệu pháp gia đình sẽ làm che khuất gia đình (Nguyên văn: “The use of narrative metaphors in family therapy obscures the family”):

Liệu pháp dựa trên chuyện kể đã rời xa các nguyên tắc hệ thống nhằm nêu bật lên bối cảnh sống và nền văn hóa, nhưng có điều gì đó nghịch lý trong động thái này. Trong quá trình này, các lý thuyết gia đã đặt gia đình vào nhầm chỗ - là chính ngay tại điểm tức thời và rõ rệt của bối cảnh và nền văn hóa mà người ta đang sống trong đó. (Trang 403)

Xem qua tư liệu, dường như có một khía cạnh trong thực hành liệu pháp gia đình đã bị làm lu mờ đi trong mô hình sử dụng chuyện kể (narrative paradigm): đó chính là tầm quan trọng của giao tiếp không lời.

(Lược bỏ một đoạn tác giả trích dẫn nhiều tài liệu chuyên môn về ngôn ngữ không lời)

KHÔNG TỪ NGỮ KHÔNG HẲN LÀ KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ

Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà trị liệu dựa trên tương tác đối thoại đều xem “những điều thân chủ nói” như là trọng tâm duy nhất của cuộc đối thoại trị liệu. Chẳng hạn như Tom Andersen (1995) nhấn mạnh rằng nhà trị liệu không chỉ phải lắng nghe tất cả những gì được nói mà còn phải nhìn thấy những điều ấy được phát biểu như thế nào: “Để nghe cũng phải biết nhìn” (Andersen, 1995: 23). Ông đã cho ví dụ về một người cha thở dài khi nói về nỗi buồn của đứa con trai. Điều này đã mời gọi Andersen khởi đầu việc đối thoại về chuyện buồn ấy và ông đặt câu hỏi: “Khi con trai ông buồn, bên trong nỗi buồn ấy chỉ toàn là buồn hay còn có thêm cảm giác nào khác?”. Người cha nói “Nó còn có thêm cả sự giận dữ nữa”. Andersen tiếp tục hỏi “Nếu như con trai ông có thể nói ra được nỗi buồn ấy, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?” vân vân và vân vân. Với cách đặt những câu hỏi như thế, Andersen không có mục đích tìm kiếm những ý nghĩa sâu xa đằng sau những gì được nói, như những nhà trị liệu của trường phái cấu trúc (structurist) thường làm. Thay vào đó, ông muốn hiểu những gì thực sự “bên trong” các diễn đạt bằng lời của thân chủ (Andersen, 1995). Ông chú tâm vào sự phong phú của các phát biểu không lời, và xem chúng như những lời mời gọi để đặt thêm những câu hỏi vừa có tính hiếu kỳ vừa có tính trân trọng thân chủ.

Trở lại trường hợp gia đình Vansteen, chúng ta thấy rằng nhà trị liệu, được truyền cảm hứng bởi những kiểu hỏi chuyện của Tom Andersen, đã sử dụng sự im lặng kéo dài của Nancy như một điểm khởi đầu cho một cuộc đối thoại đầy trân trọng.

Tôi để sự im lặng trôi qua ít phút, rồi hỏi Nancy:
“Nếu sự im lặng này của bà có thể phát biểu ra được, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?”
“Tôi không biết... Tôi không muốn làm ông ấy sợ [vừa nói vừa cuối đầu về phía Kurt]. Ông ấy đã sợ như thế đấy, và nếu như tôi lại nói ra nỗi lo sợ của mình...”
“Bà e rằng ông ấy sẽ càng sợ nhiều hơn nếu bà nói ra nỗi sợ của mình?”
“Vâng”

Đôi khi sự ngập ngừng có thể được diễn giải như là những phản ứng phòng vệ của thân chủ: nghĩa là thân chủ phản kháng lại tiến trình trị liệu bằng cách không nói gì cả. Tuy nhiên, các tác giả khác lại cho rằng “Sự im lặng thực sự mang nhiều dáng vẻ và âm điệu khác nhau” (Serani, 2000: 505): Trong trị liệu, đối với những thân chủ khác nhau, sự im lặng lại có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau. Học thuyết kiến tạo xã hội (social constructionism) cho ta biết rằng ý nghĩa không thể được phát hiện bên trong ý định của thân chủ, thay vào đó, ý nghĩa được tạo nên bởi cuộc “thương thảo” (negotiation) khi nhà trị liệu đối thoại với thân chủ (Gergen, 1999). Trong trường hợp gia đình Vansteen, ý nghĩa của sự im lặng ở bà Nancy được tạo nên một phần bởi chính bản thân sự im lặng, một phần bởi đáp ứng của nhà trị liệu. Nhà trị liệu không xem sự im lặng này như một sự vắng lặng, mà vẫn như một sự hiện diện của lời nói: SỰ IM LẶNG CHỨA ĐẦY NHỮNG CÂU CHUYỆN CHƯA ĐƯỢC NÓI VÀ NHỮNG LÝ DO KHIẾN CHÚNG KHÔNG ĐƯỢC NÓI. Nhà trị liệu xem sự im lặng của Nancy như là phản ảnh sự ngập ngừng khi nói của bà: Có điều gì đó làm bà muốn nói và cũng có điều gì đó khi bà không thể nói. Nhà trị liệu đặt câu hỏi về sự im lặng này: “Nếu sự im lặng này có thể nói ra được, đó sẽ là những lời lẽ như thế nào?”. Câu trả lời của Nancy cho thấy rằng bà đã chấp nhận đề nghị của nhà trị liệu ở điểm sự im lặng của bà không phải là một sự trống không. Bà chấp nhận ý kiến của nhà trị liệu khi ông đã làm cho sự ngập ngừng nói ra nỗi sợ của mình trở nên có ý nghĩa, và bà làm rõ lý do chính đáng khiến bà ngập ngừng đó là vì bà không muốn làm chồng mình sợ hãi thêm một cách không cần thiết.

Ví dụ đơn giản này đã soi sáng giả thuyết thứ nhất trong bài viết này: Sự ngập ngừng của thân chủ khi đối thoại thường được thể hiện bằng những cách thức không lời (chẳng hạn như giữ im lặng). Nó cũng minh họa cho giả thuyết thứ hai: Thân chủ có những lý do chính đáng để ngập ngừng. Đôi khi việc nói ra có thể gây nguy hiểm (Griffith và Griffith, 1994), thân chủ có thể làm tổn thương ai đó trong gia đình hoặc cũng có thể chính mình bị tổn thương.

SỰ NGẬP NGỪNG TRONG NHỮNG PHIÊN TRỊ LIỆU GIA ĐÌNH

John Byng-Hall đã mô tả cách thức làm thế nào mà một đứa trẻ có thể trở thành một tác nhân điều hòa những khoảng cách (distance regulator) bên trong gia đình của trẻ (Byng-Hall, 1980, 1995): Đứa trẻ theo dõi mối quan hệ của cha mẹ mình, sẵn sàng kéo họ lại với nhau khi họ cách nhau quá xa, hoặc có thể đến chen vào giữa họ khi họ ở quá gần nhau. Những nhà trị liệu gia đình đã biết đến vô vàn những cách thức qua đó đứa trẻ đã được thu hút vào những kiểu vận hành như thế (Byng-Hall, 1995: 185). Với cách thức tương tự, trẻ em cũng thường trở thành những tác nhân điều hòa đối với những điều được nói về trong phiên trị liệu gia đình bằng cách thể hiện sự ngập ngừng khi đi vào cuộc đối thoại. Thật vậy, trong phiên trị liệu gia đình, sự ngập ngừng không luôn luôn được thể hiện bởi những người đang nói. Đôi khi, trong lúc có một thành viên trong gia đình kể một câu chuyện, thì một thành viên khác (thường là một đứa trẻ) lại biểu hiện một dấu hiệu không lời mà dấu hiệu ấy có thể được hiểu là sự ngập ngừng không muốn đi sâu vào phiên trị liệu. Đây là giả thuyết thứ ba trong bài viết này. Giả thuyết này được gây cảm hứng từ công trình của Edith Tilmans-Ostyn (1999a), người nói về những cái “phanh” (thắng) trong một gia đình. Bà cho rằng trẻ em, thông qua những hành vi không lời của mình, thường phát ra những tín hiệu cảnh báo về những nguy hiểm tạo nên từ cuộc đối thoại có tính khám phá liên quan đến một số chủ đề nào đó trong phiên trị liệu. Khi đứa trẻ bắt đầu gây ra một tiếng ồn, hoặc đòi đi vệ sinh, hoặc khi đứa trẻ làm xao lãng bố mẹ, vân vân... đứa trẻ như thể đang tìm cách trì hoãn hoặc thậm chí làm ngưng luôn cuộc đối thoại. Với ý nghĩa này, những phát biểu không lời của trẻ có thể được hiểu như một chú giải không lời vào cuộc đối thoại rằng: “Có thể nguy hiểm đấy”, “Chuyện này đi nhanh quá” hoặc “Không an toàn khi nói về chủ đề đó đâu”...

NGHIÊN CỨU CA CỦA TOM

Đó là lần đầu tiên cậu bé Tom, 8 tuổi, ngồi cùng bố mẹ chung một phòng sau 2 năm kể từ ngày bố mẹ cậu ly thân. Họ lặng lẽ đi vào phòng. Cả ba có vẻ rất thận trọng. Người bố ngồi trên chiếc ghế bên phải, mẹ ghế bên trái và Tom trên chiếc ghế ở giữa. Trong cuộc đối thoại bên trong (inner conversation), tôi thắc mắc không biết cậu bé nghĩ gì khi ngồi giữa bố và mẹ: Liệu cậu là chiếc cầu nối giữa họ hay là một hàng rào ngăn cách giữa họ?

Tom được một bác sĩ gửi đến cho tôi vì cậu bị những cơn đau dạ dày. Vị bác sĩ đã không tìm thấy chứng cứ thực thể nào cho những cơn đau này, vì thế ông đã giới thiệu Tom cùng với bố mẹ đến với tôi. Ban đầu chúng tôi ngồi im lặng, và rồi chúng tôi nói chuyện về mối bận tâm của bố mẹ đối với những cơn đau khó hiểu của Tom. Tôi cảm thấy không thoải mái khi nhận ra rằng cuộc nói chuyện này bằng cách nào đó đã trở thành một cuộc đấu khẩu tinh tế giữa bố và mẹ. Họ nói chuyện nhẹ nhàng, nhưng luôn luôn chỉ trích lẫn nhau. Tôi lấy làm lạ bởi vì họ hề không nhìn nhau như thể người này không để ý là có người kia cũng đang hiện diện. Từ từ tôi nhận thấy áp lực ngày một gia tăng giữa họ. Rồi một cuộc xung đột thực sự đã nổ ra giữa họ khi thời gian nói chuyện diễn ra được khoảng một giờ. Có vẻ như sự bùng nổ ấy là không thể tránh khỏi. Tôi tự khỏi không biết Tom cảm thấy như thế nào? Và cùng lúc ấy, tôi thấy Tom dùng hai tay ôm lấy bụng. Tôi tự hỏi: “Cậu bé đang đau à?”. Tôi nhìn sang cha mẹ cậu xem họ có nhận thấy giống tôi hay không thì họ đã không nhận biết gì cả.

Người bố nói với tôi: “Dĩ nhiên phải tùy ông xem coi có chuyện gì đã xảy ra cho Tom như vậy”.

Tôi tự hỏi mình sẽ có thể nói gì nếu như không thử đứng vào góc độ xem xét của từng người trong số họ? (Nguyên văn: “without taking sides”). Tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt giữa người bố và người mẹ, và tôi cũng chợt nhận ra rằng Tom hẳn cũng đã cảm thấy theo cách giống như vậy. Tôi lại nhìn Tom. Gương mặt cậu bé cho tôi biết rằng cậu đang đau vì thế tôi hỏi: “Cháu đang đau à?”.

Cậu chẳng nói gì mà chỉ gật đầu. Tôi mời cậu bé đến ngồi bên cạnh tôi và kể cho tôi nghe về cơn đau của cậu. Tom đứng lên và đến ngồi cạnh tôi.

“Cháu có thể nói cho chú nghe cháu đau như thế nào không?” Tôi hỏi.
“Giờ cháu thấy đỡ hơn rồi”, Tom đáp.
“Thế thì tốt”, tôi nói và tôi cũng thấy rằng Tom đã đỡ đau hơn.

Tôi đặt giả thuyết rằng cơn đau bụng của Tom có thể là cách thể hiện những áp lực mà Tom cảm thấy khi cậu ngồi giữa bố và mẹ. Và tôi quyết định hỏi cậu về điều đó.

“Cháu có thể nói thử xem cơn đau ấy đang cố gắng nói với chúng ta điều gì vậy?”. Tôi hỏi nhưng cũng cảm thấy rằng Tom sẽ không thể nói được gì vào lúc đó. Và thật vậy, cậu đã không thể trả lời. Vì thế tôi trở lại nhìn sang phía bố mẹ cậu và chúng tôi nói về những khó khăn nào họ đã gặp phải trong việc làm bố mẹ của Tom sau khi họ đã chia tay. Tôi cũng chú ý thấy, ít nhất là vào lúc ấy, những áp lực giữa bố và mẹ cũng đã mất đi. Cả hai cho đến lúc ấy đều đang lắng nghe một cách chăm chú những gì Tom và tôi nói với nhau. Tôi lưu nhớ trong trí mình về điều cơn đau của Tom đã gây cho bố mẹ cậu sự chú ý đối với cậu, và bằng cách đó cơn đau đã tạo cơ hội cho việc giảm bớt căng thẳng giữa bố mẹ và tránh xảy ra sự bùng nổ bạo lực giữa họ với nhau.

Như được minh họa trong câu chuyện của Tom, trong một số trường hợp, triệu chứng của đứa trẻ tự nó đã biểu hiện như một hành vi không lời trong phiên trị liệu, mà điều đó có thể được hiểu như là một thái độ lưỡng lự không dám đối thoại. Như thể Tom đang muốn cho nhà trị liệu biết rằng sẽ rất nguy hiểm khi tiếp tục phiên trị liệu bởi vì có khả năng sẽ bùng nổ một cuộc xung đột giữa bố mẹ của của cậu. Nhà trị liệu sử dụng hành vi không lời của Tom như một điểm khởi đầu cho cuộc đối thoại. Việc làm này thường có lợi vì nó tạo ra khoảng không gian cho việc kể ra những chuyện chưa được kể. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhà trị liệu cần phải tôn trọng nhịp độ và tính mẫn cảm (tempo and vulnerability) của các thành viên trong gia đình (Rober, 1998). Thật vậy, đôi khi những thành viên trong gia đình có thể biểu lộ ra các sự việc theo cách không lời, trước họ hoặc các thành viên khác trở nên sẵn sàng hơn để có thể nói chuyện. Điều này dường như đúng trong trường hợp cơn đau bụng của Tom. Nhà trị liệu trước tiên đã nghĩ rằng, bằng cách đề cập đến chủ đề đau bụng của Tom, sẽ có thể mở ra khoảng không gian để nói đến những áp lực chưa được nói đến mà Tom đã cảm thấy từ cuộc đối thoại giữa bố mẹ của cậu. Tuy nhiên, sau đó, nhà trị liệu không muốn ép buộc cậu nói bởi nhà trị liệu suy nghiệm rằng nếu dạ dày của Tom đã lên tiếng thay cho miệng cậu có thể nói, tất hẳn phải có lý do chính đáng để cơn đau xảy ra. Có lẽ đã rất khó khăn hoặc quá nguy hiểm, ít nhất cho đến lúc đó, khi dùng lời lẽ để nói ra câu chuyện (Griffith và Griffith, 1994). Trong những trường hợp như thế này, tốt nhất nhà trị liệu có lẽ nên giả lờ các phát biểu không lời ấy hoặc chỉ nên thận trọng cho một lời bình với “một thái độ thận trọng không chắc chắn để giúp cho gia đình trở nên nhạy cảm hơn đối với những điều mà trước đó họ đã bỏ qua không chú ý” (Andersen, 1987: 420).

NHỮNG LÝ DO CHÍNH ĐÁNG ĐỂ KHÔNG NÓI RA

Thay vì tập trung vào nội dung của những chuyện chưa được nói, tôi đề nghị các nhà trị liệu nên mời gọi các thành viên gia đình nói ra những lý do chính đáng khiến họ không kể ra những câu chuyện này (Tilmans-Ostyn, 1999a). Nhà trị liệu nên nói rằng: “Tôi hiểu bạn không muốn nói ra điều đó vào lúc này. Như vậy cũng tốt. Nhưng có thể giúp tôi hiểu điều gì đã khiến bạn khó khăn đến nỗi không thể nói được lúc này?” hoặc “Bạn sợ điều gì sẽ xảy ra?”. Những loại câu hỏi thế này phản ảnh sự tôn trọng chân thành của nhà trị liệu trong việc công khai dành cho thân chủ quyền được quyết định có nói ra điều mà họ muốn nói hay không. Ngoài ra, nhà trị liệu cũng thừa nhận việc than chủ có những lý do chính đáng để quyết định không kể những câu chuyện ấy, còn về phần mình, nhà trị liệu mong muốn cố gắng để hiểu tầm quan trọng của những lý do chính đáng này. Cách tiếp cận theo kiểu trân trọng và dè dặt như thế thường sẽ mở ra những khoảng không gian cho những câu chuyện chưa được kể từ đó giúp làm sáng tỏ việc thân chủ có nhu cầu tự bảo vệ họ bằng cách giữ kín một số chuyện.

NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CỦA ELLY VÀ CÂU CHUYỆN MŨI KIM TIÊM DƯỚI DA

Một phụ nữ đã ly hôn cùng với hai con (con gái Elly, 8 tuổi, và con trai Art, 2 tuổi) đến với phiên trị liệu gia đình vì những bận tâm của bà đối với hành vi có vấn đề của đứa con gái. Người mẹ cũng cho biết chính bà cũng đã nhập viện điều trị chứng trầm cảm trước đó vài tháng, và bà cũng biểu lộ ý muốn có được những phiên trị liệu cá nhân cho riêng bà để có thể nói ra những trải nghiệm đau thương của chính mình thời thơ ấu. Mẹ của bà đã qua đời lúc bà chỉ mới 8 tuổi và tuổi thơ của bà trôi qua với sự cô độc.

Vào cuối phiên trị liệu thứ hai, người mẹ đề nghị rằng sẽ có lợi cho Elly nếu có thể để em nói chuyện riêng với nhà trị liệu về người bố của mình và em đã nhớ bố như thế nào sau khi bố mẹ chia tay. Tôi quay sang hỏi Elly rằng em nghĩ sao về đề nghị của mẹ. Elly lắc đầu. Tôi hỏi em cử chỉ này nghĩa là như thế nào. Elly miễn cưỡng nói rằng em không muốn nói về bố bởi vì nói thế sẽ làm cho em rất buồn. Tôi nói nếu em không muốn nói về bố thì tôi sẽ tôn trọng quyết định của em, nhưng tôi cũng thêm rằng nếu khi nào em đổi ý và quyết định nói chuyện về bố thì em vẫn có thể nói. Elly gật đầu. Rồi tôi hỏi bà mẹ rằng bà có muốn nói chuyện riêng về tuổi thơ đau thương của mình mà không có mặt những đứa con không, như bà đã đề nghị vào phiên trị liệu thứ nhất? Bà nói rằng bà thực sự muốn nói về tuổi thơ của bà. Ngay chính lúc đó, Elly đứng dậy và cầm một chiếc ống tiêm đồ chơi làm động tác giả vờ như đang tiêm cho mẹ một liều thuốc. Người mẹ ngưng nói và nói đùa với con “A! Con đang làm mẹ đau”. Cả hai chúng tôi cùng nhìn Elly.

Khi Elly làm động tác cho mẹ một mũi tiêm, ý nghĩ đầu tiên đến trong đầu tôi là “việc này quan trọng đây”. Trong cuộc đối thoại bên trong (inner conversation) của tôi, tôi tự hỏi liệu có phải Elly đang cố lội kéo sự chú ý của chúng tôi ra khỏi chủ đề đau buồn mà người mẹ đang nói đến để hướng sang chuyện đang xảy ra tại-đây-lúc-này ít đau buồn hơn chăng? Một giả thuyết khác cũng thình lình vụt lên trong trí tôi đó là việc làm của Elly là cách thức có tính biểu tượng của em nhằm giúp đỡ mẹ mình cảm thấy bớt đau buồn hơn về tuổi thơ bất hạnh của bà – Mũi tiêm như thể một “liều thuốc giảm đau” (Nguyên văn: “pain-killer). Thật vậy, chính Elly cũng mới vừa nói là em không muốn nói chuyện riêng về những chuyện quan trọng đối với em vì nói ra sẽ khiến em quá đau buồn. Có lẽ em cũng nghĩ rằng mẹ em cũng sẽ rất đau buồn khi kể về tuổi thơ của bà.

Tôi hỏi Elly theo kiểu vui đùa “Cháu muốn làm mẹ cảm thấy bớt đau phải không?” Elly chỉ cười mà không nói gì. Rồi tôi nói với cô bé về những suy nghiệm của tôi. Tôi nói rằng tôi đã rất ấn tượng về em như một người rất ân cần và có lẽ em cũng sợ mẹ đau buồn nếu như bà một mình nói về tuổi thơ của bà, vì thế em muốn cho bà một mũi tiêm giảm đau.

Elly đáp rằng em không muốn để mẹ một mình nói với tôi về tuổi thơ đau buồn của bà. Tôi nhờ em giúp tôi hiểu điều đó nghĩa là gì. Cô bé vẫn im lặng. Tôi hỏi: “Cháu có nghĩ rằng mẹ sẽ rất buồn khi mẹ nói về tuổi thơ của mẹ không?”. Em đã gật đầu đồng ý.

Người mẹ nói với Elly: “Nhưng nếu mẹ nói ra được chuyện đó, nỗi đau cuối cùng rồi cũng sẽ qua đi”. Elly lắc đầu và nói: “Nếu mẹ nói về những chuyện buồn đó thì con sẽ phải ngồi ở đâu đây?”.

Trước tiên, tôi hơi bối rối vì câu nói của Elly. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng có thể Elly đang có ngụ ý nói đến khoảng thời gian ba tháng khi mẹ em phải nhập viện vì chứng trầm cảm. Elly đã phải ở nhà trong suốt thời gian đó. Tôi hỏi cô bé có lo sợ rằng mẹ phải nhập viện một lần nữa nếu bà kể về tuổi thơ đau buồn của bà? Em gật đầu đồng ý.

Sự trả lời khẳng định của Elly đã công nhận ý kiến của nhà trị liệu rằng có thể hiểu hành động của cô bé giả vờ tiêm thuốc cho mẹ như thể là cách cô bé thể hiện sự ngập ngừng không muốn tiến sâu hơn vào cuộc đối thoại. Elly dường như rất nhạy cảm với sự nguy hiểm của việc mẹ em nói chuyện riêng với nhà trị liệu bởi vì em lo sợ mẹ sẽ bị trầm cảm trở lại. Do vậy, Elly có những lý do chính đáng để ngập ngừng.

SỰ NGẬP NGỪNG VÀO LÚC KHỞI ĐẦU TRỊ LIỆU

Sự ngập ngừng thường được quan sát thấy, không chỉ trong quá trình đối thoại, mà còn ngay lúc mới bắt đầu cuộc gặp gỡ trị liệu, tức là khi thân chủ và nhà trị liệu gặp gỡ nhau lần đầu tiên: chẳng hạn như khi thân chủ đang ngồi đợi ở phòng chờ, hoặc khi thân chủ bắt đầu ngồi đối diện với nhà trị liệu với sự chăm chú của nhà trị liệu đợi nghe câu chuyện của thân chủ. Khi ấy, thân chủ cảm nhận ra tính nhạy cảm của câu chuyện mà mình sắp nói ra và e ngại liệu bối cảnh đối thoại này có đủ an toàn hay không: Nhà trị liệu liệu sẽ hiểu được mình? Có cười mình không? Nhà trị liệu sẽ xem mình là điên rồ chăng? Hoặc liệu mình sẽ không thể kiểm soát được cảm xúc? Vân vân... Thân chủ hiếm khi nói thành lời những ý nghĩ này, nhưng họ vẫn ngập ngừng, và sự ngập ngừng của thân chủ thường biểu hiện bằng những cách thức tế vi, không lời, khó thể nhận biết. Điều này được minh họa trong trường hợp Liza, cô gái 25 tuổi, đến trị liệu vì cô bị xâm hại khi còn nhỏ bởi chính người cha của mình.

NGHIÊN CỨU CA CỦA LIZA

Khi Liza bước vào phòng trị liệu vào đầu phiên trị liệu đầu tiên, tôi cảm nhận được một sự băn khoăn mơ hồ. Sự băn khoăn ấy vẫn không hết sau đó. Trước tiên, tôi không thể chỉ ra được đó là điều gì (Nguyên văn: “I could not put my finger on it”). Tôi cũng tự hỏi liệu có điều gì không hay đang xảy ra? Tôi tự bảo mình hãy đặt tâm thế ra xa một chút và chú tâm vào cuộc đối thoại bên trong của mình. Cái làm cho tôi cảm thấy băn khoăn không phải là nội dung những điều Liza nói mà là cách thức cô ấy nói. Những câu trả lời của cô khá là ngắn gọn. Cô có vẻ rất căng thẳng. Tôi cũng nhận thấy cô hay nhìn đi chỗ khác và tránh nhìn mắt tôi. Tôi thấy cô có vẻ khá bực bội và điều đó khiến tôi cảm thấy cô ấy không tin tưởng tôi. Tôi cũng tự phản ảnh rằng, mặc dù chúng tôi mới gặp nhau lần đầu, cô ấy có vẻ đang tức giận đối với tôi. Có lẽ tôi đã nói điều gì đó khiến cô bị tổn thương hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác? Hoặc cũng có thể cô ấy chỉ căng thẳng như nhiều thân chủ khác khi mới bắt đầu bước vào trị liệu.

Tôi hỏi Liza rằng cô có cảm thấy căng thẳng hay không?
Trước tiên, cô im lặng, nhưng sau đó cô nói rằng cô cảm thấy không dễ dàng gì khi đến trị liệu.
“Cô có thể giúp tôi hiểu được ý nói này của cô không?”, tôi hỏi.

Liza đáp là cô đã suy nghĩ đến việc trị liệu từ rất lâu rồi, nhưng cô luôn luôn từ bỏ ý định đó: “Ngay cả mới đây thôi, khi tôi ngồi ở phòng chờ”, cô nói thêm.

Tôi lại yêu cầu cô nói thêm để có thể giúp tôi hiểu rõ cô. Và cô đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“Bố tôi đã xâm hại tôi khi tôi chỉ mới lên 4 hoặc 5 tuổi. Ông ta vào phòng tôi ban đêm lúc mọi người đã ngủ cả, và ông ấy đã cưỡng hiếp tôi. Sau đó, ông bảo tôi không nên kể việc này cho ai cả vì đó là bí mật riêng của chúng tôi, và nếu tôi kể ra thì ông sẽ phải vào tù. Vì thế tôi đã không kể điều này cho ai biết cả, nhưng những đêm sau đó, ông ấy lại vào phòng và cưỡng hiếp tôi. Một đêm nọ, tôi bị tiểu dầm. Khi bố tôi đến và nhận thấy giường tôi ướt sũng, và ông gọi tôi là đứa con gái hư, dơ dáy, bẩn thỉu, nhưng ông không gần gũi tôi nữa. Và tôi đã tìm được cách để tự bảo vệ mình trước ông ấy. Từ đó trở đi, mỗi đi tôi đều tiểu ướt cả giường của mình.

“Chẳng bao lâu sau, mẹ tôi phát hiện tôi bị tiểu dầm. Bà gọi và hỏi chuyện với một bác sĩ, và ông ấy gửi chuyển tôi đến một nhà trị liệu. Khi mẹ tôi nói chúng tôi sẽ đến gặp một nhà trị liệu, tôi đã khấp khởi hy vọng. Có thể lúc đó tôi sẽ thoát khỏi nỗi đau đớn, sợ hãi và tủi nhục. Tuy nhiên, trong phiên trị liệu đầu tiên, tôi nhận thấy rằng nhà trị liệu chỉ lo tìm kiếm cách giải quyết cho chuyện tiểu dầm của tôi thôi. Ông ấy dường như chẳng đoái hoài gì đến những mối quan hệ trong gia đình tôi, cũng không quan tâm đến việc tôi tiểu dầm như thế nào và tại sao tôi lại như thế. Tôi phải thừa nhận rằng cách làm đó cũng đã giúp tôi giảm nhẹ phần nào vì tôi rất sợ phải đối diện với bố tôi. Cùng lúc đó, tôi lại cảm thấy tức giận đối với nhà trị liệu, không chỉ bởi vì ông chẳng chú tâm đến chuyện gì khác ngoài chứng tiểu dầm của tôi, mà còn bởi vì ông ta chỉ lo tìm kiếm cách khắc phục chứng tiểu dầm mà không nhận ra đây chính là cách duy nhất giúp tôi có thể đối phó với bố tôi.

“Vì vậy, tôi đã âm thầm phá hỏng những giải pháp mà ông đã đề nghị. Và tôi cũng đã thề rằng mình sẽ chẳng bao giờ tin vào những nhà trị liệu một lần nào nữa.”

Câu chuyện kể của Liza về những trải nghiệm thời thơ ấu của cô có thể cho chúng ta những bài học về tầm quan trọng của sự giao tiếp không lời (trong trường hợp này đó là triệu chứng của Liza: chứng tiểu dầm) trong thực hành liệu pháp gia đình. Nó cho thấy rằng những hành vi không lời của trẻ em thường “chạm đến” những câu chuyện không được nói đến trong gia đình. Hành vi không lời dường như là phương thức tốt nhất để “nói ra” những điều không thể nói thành lời, vì nói ra là điều bị cấm đoán và không an toàn (Griffith và Griffith, 1994). Sự thật là những dấu hiệu không lời của cô bé Liza đã không được nhà trị liệu xem xét một cách nghiêm túc và ông ta cũng không hiểu những biểu hiện như thế, và đó cũng là điều gây thất vọng lớn lao cho cô bé. Ngoài ra, sự ngập ngừng của cô (lo sợ đối diện với cha), được thể hiện thông qua việc cô âm thầm phá hỏng kế hoạch chữa trị, cũng là một việc không được nói ra. Cũng có thể khí đó, nhà trị liệu đã cảm thấy rằng cô bé là một đứa trẻ khó khăn, hay phản kháng.

Phiên trị liệu đầu tiên của nhà trị liệu với Liza (khi đã lớn) đã nêu lên tầm quan trọng của việc phải xem xét một cách nghiêm túc những biểu hiện không lời của sự ngập ngừng mà thân chủ thể hiện vào lúc khởi sự trị liệu, bởi vì những biểu hiện ngập ngừng ấy thường có ngụ ý rằng đã có những câu chuyện riêng tư quan trọng mà trước đó chúng đã chưa được kể. Như trong trường hợp của Liza, sự ngập ngừng vào lúc khởi sự trị liệu thường có thể ngụ ý rằng có một trải nghiệm không thoải mái, thậm chí là gây sang chấn, mà thân chủ có trước đó đối với việc trị liệu (Tilmans-Ostyn, 1999a). Những trải nghiệm tiêu cực đối với việc trị liệu có thể khiến cho thân chủ có thể cảm thấy mình trở nên quá nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Việc mở ra không gian cho việc kể ra những câu chuyện như thế sẽ làm gia tăng thêm những cơ hội để những cuộc gặp gỡ trị liệu sau đó trở nên có tính hợp tác hơn và hữu ích hơn, không chỉ vì nó tạo ra cơ hội cho nhà trị liệu thực hiện việc chăm sóc những khía cạnh nhạy cảm của thân chủ, mà còn vì nhà trị liệu có thể mở ra không gian cho những điều mới mẻ hơn bằng cách bảo đảm rằng những trải nghiệm tiêu cực kia sẽ không tái diễn trong quá trình trị liệu mới mẻ này (Tilmans-Ostyn, 1999a). Việc kể ra được câu chuyện về những trải nghiệm tiêu cực như thế đôi khi cũng đủ khiến cho thân chủ đoan chắc rằng những trải nghiệm tương tự như thế sẽ không tái diễn trở lại. Bằng cách kể ra câu chuyện ấy, tiến trình trị liệu mới lần này trở nên khác biệt hơn so với lần trị liệu cũ trước đó, và những khoảng không gian sẽ được mở ra cho những trải nghiệm mới.

Tuy nhiên, cũng có lúc, việc nói ra câu chuyện cũng chưa đủ để giúp thân chủ thoát khỏi những mối bận tâm với những trải nghiệm trong quá khứ. Trong những trường hợp như thế, nhà trị liệu có thể bàn bạc với những thành viên khác trong gia đình xem điều gì có thể bảo đảm cho họ sẽ không tái diễn những điều tồi tệ tương tự khi họ chấp nhận những nguy cơ khi dấn thân vào tiến trình trị liệu mới mẻ lần này. Như được minh họa trong ca lâm sàng tiếp theo sau đây, cuộc đối thoại để trả lời cho câu hỏi nàycó thể cho chúng ta những manh mối để tìm ra những thứ cần thiết để giúp cho thân chủ cảm thấy an toàn khi diễn ra cuộc đối thoại trị liệu.

CA LÂM SÀNG CỦA SAM VÀ VIỆC TUYÊN BỐ “LUẬT THỜI CHIẾN”

Một gia đình đã đến trị liệu vì đứa con trai 12 tuổi tên Sam đã bỏ nhà ra đi. Khi cảnh sát tìm thấy cậu thì cậu đã quả quyết rằng mình đã bị bắt cóc. Cảnh sát không tin câu chuyện của cậu và gửi trả cậu trở về với bố mẹ. Họ cũng đã liên lạc với nhà tâm lý học đường và người này đã nói chuyện với Sam. Do bởi Sam nêu ra một số vấn đề trong gia đình nên nhà tâm lý học đường đã chuyển gửi Sam và gia đình cậu đến với tôi.

Trong phiên trị liệu đầu tiên, Sam đã giữ im lặng. Cậu không muốn nói gì. Tôi hỏi xem cậu có cách nào để giúp tôi có thể hiểu được sự im lặng của cậu. Sam nhìn bố rồi tiếp tục im lặng. Tôi nói: “Sam, chú không chắc lắm, nhưng chú có ấn tượng rằng cháu không muốn nói chuyện. Thế cũng được. Cháu không cần phải nói gì.”

Tôi ngừng một chút rồi nói tiếp: “Chú sẽ kể cho cháu nghe một câu chuyện ngắn. Đây, hãy nhìn con rùa này. [Tôi cho cậu thấy một con rùa đồ chơi] Bất cứ khi nào rùa cảm thấy không an toàn, rùa sẽ thu rút đầu và chân mình vào trong chiếc mai. [Tôi cũng cho cậu xem cách thức rùa thu rút đầu và chân] Bằng cách đó, con rùa không thể bị tổn thương. Đó cũng là cách một con rùa tự bảo vệ mình tránh bị tổn thương. Trẻ con thì không có chiếc mai như rùa. Cháu có biết trẻ con sẽ tự bảo vệ mình như thế nào khi cảm thấy không an toàn không? Trẻ con sẽ im lặng và chờ đợi cho đến khi mọi chuyện trôi qua. Chúng sẽ không nói gì cả. Vì vậy, khi cháu cứ giữ im lặng như thế, chú đang tự hỏi liệu rằng cháu có đang cảm thấy không an toàn? Chú cũng đang thắc mắc liệu rằng trước đây, cháu đã từng có một trải nghiệm không tốt khi nói ra một điều gì đó?”

Sam lại nhìn bố và nhìn sang cả mẹ. Tôi có ấn tượng rằng Sam đang chú tâm đến loại câu hỏi này. Rồi Sam đang làm động tác lấy hơi như thể cậu chuẩn bị nói ra điều gì đó, nhưng tôi ngăn lại: “Không, đợi đã. Cháu đừng trả lời chú. Cháu chỉ nên trả lời khi cảm thấy đủ an toàn thôi.”

Sam gật đầu. Rồi cậu cho biết cậu đã cảm thấy an toàn khi nói chuyện với nhà tâm lý học đường, nhưng lúc này, với sự hiện diện của bố mẹ, cậu thấy không muốn nói. Chúng tôi nói về sự khác biệt giữa việc nói chuyện khi gặp riêng với nhà trị liệu và nói chuyện khi có mặt bố mẹ trong phiên trị liệu gia đình. Rồi câu chuyện nhanh chóng làm rõ ra một điều rằng Sam lo ngại rằng nếu bố mẹ nói chuyện thì bố cậu có thể trở nên trầm cảm trở lại. Bố mẹ cậu cho hay bố đã từng phải nhập viện vài lần để điều trị chứng trầm cảm nghiêm trọng. Người bố nói rằng ông cảm thấy căng thẳng khi đến gặp nhà trị liệu vì ông e ngại việc nói chuyện có thể kích hoạt chứng trầm cảm trở lại. Ông giải thích: “Tôi đã đi trị liệu, nhưng tôi càng nói thì tôi lại cảm thấy mình trầm cảm nhiều hơn, vì thế tôi đã không trở lại trị liệu nữa”.

Tôi hỏi họ liệu có điều gì bảo đảm rằng một chuyện tương tự sẽ không xảy ra tại đây, trong cuộc đối gia đình như thế này?
Sam nói: “Miễn tất cả chúng ta thận trọng để có thể phát hiện thấy những dấu hiệu đầu tiên của trầm cảm”
“Theo dõi những dấu hiệu cảnh báo à?”, tôi hỏi.
Sam gật đầu.
Rồi tôi nói: “Dấu hiệu báo động chứng trầm cảm xuất hiện trở lại nơi bố cháu là dấu hiệu gì?”

Sam và bố mẹ cậu cho biết đó là “không muốn thức dậy vào buổi sáng”, “luôn cảm thấy mệt mỏi”, “ít nói chuyện với hai mẹ con”, “ít nói về bản thân một cách tích cực”, “không còn thích đọc báo”, “không thích cùng bạn bè đi câu cá nữa”, “hay thở dài”, “uống rượu nhiều”...

Tôi ghi chú những dấu hiệu này. Tôi đề nghị có một thang điểm để đánh giá các dấu hiệu cảnh báo này. Vào đầu mỗi phiên trị liệu, từng thành viên gia đình sẽ cho điểm vào mỗi tiết mục trên đây theo các mức độ từ 1 (không có báo động gì cả) cho đến 10 (mức báo động đỏ). Rồi tôi bàn với họ về mức độ nào mà từ đó có thể bắt đầu cảnh báo (từ mức 6 trở lên), chúng tôi nên phản ứng như thế nào và chúng tôi nên làm gì khi đó...

Sam nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ tuyên bố luật thời chiến”
Mọi người cười ồ lên.

Chúng tôi chuyển sang nói về “luật thời chiến” có nghĩa là gì trong gia đình này và rồi họ quyết định rằng với “luật thời chiến” thì tất cả các phiên trị liệu phải đừng quá cảm xúc và đừng quá “đi sâu”, người bố phải liên hệ với bác sĩ tâm thần để xem xét có dùng thuốc hay không, người bố cũng phải nói với mẹ về điều gì đã làm ông phiền muộn, rồi ông cũng sẽ phải suy nghĩ về những khía cạnh tích cực của bản thân cũng như hoàn cảnh xung quanh ông và bàn bạc những điều ấy với gia đình mình.

Sau phiên trị liệu ấy, tôi đã thực hiện một bản hợp đồng quy định rõ những thỏa thuận mà chúng tôi đã đạt được. Được sự đồng ý của người bố, tôi cũng tiếp xúc với vị bác sĩ tâm thần của ông để giải thích chúng tôi sẽ làm gì trong các phiên trị liệu gia đình. Vào phiên trị liệu kế tiếp, mỗi người được phát cho một bản sao của hợp đồng này và một bản sao của thang đánh giá để ghi điểm. Thủ tục này tạo điều kiện cho việc nói chuyện trở nên an toàn hơn đối với gia đình này. Nó cũng giúp cho nhà trị liệu thiết lập được một mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác với gia đình ấy. Trong suốt quá trình trị liệu, thang đo đánh giá đã được ghi điểm và ngưỡng báo động chưa bao giờ được đạt đến.

KẾT LUẬN

Trong bài viết này, tôi chủ trương rằng đôi khi sẽ rất hữu ích nếu ta xem những phát biểu không lời của thân chủ như là biểu hiện của sự ngập ngừng không dám nói chuyện và có thể sử dụng những phát biểu không lời này, theo cách nghĩ của Tom Andersen (1995), như là điểm khởi đầu cho một cuộc đối thoại đầy tính trân trọng đối với gia đình thân chủ. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là tôi không đề nghị nhà trị liệu nói ra những linh cảm hoặc suy đoán của mình về những câu chuyện chưa được kể của thân chủ. Trái lại, tôi đề nghị rằng nhà trị liệu nên có thái độ rất trân trọng đối với câu chuyện chưa được kể ấy và cuộc đối thoại nên chú trọng đến sự ngập ngừng và các lý do chính đáng khiến thân chủ không thể nói ra. Cách tiếp cận trị liệu có tính dè dặt và chân thành tôn trọng như thế thường sẽ giúp tạo nên một bối cảnh an toàn để thân chủ có thể nói ra những câu chuyện mà họ xem là nhạy cảm. Ngoài ra, cách đó cũng giúp nhà trị liệu thiết lập được một mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác với gia đình.

Để kết luận, điều quan trọng cần thừa nhận ở đây là, mặc dù tôi đã giả thuyết rằng thân chủ thường thể hiện sự ngập ngừng thông qua các cách thức không lời, nhưng không phải tất cả các biểu hiện ngập ngừng đều ở dạng không lời. Đôi khi, thân chủ chỉ nói rằng “Tôi không chắc mình muốn nói về chuyện này bởi vì...”. Tuy thế, những thể hiện ngập ngừng bằng lời như thế cũng thường được báo trước bởi những dấu hiệu không lời. Trẻ em thường là những người sử dụng cách thức không lời để thể hiện sự ngập ngừng này bởi vì trẻ em thường “tắm mình trong bầu khí cảm xúc của gia đình mình” (Tilmans-Ostyn, 1999b: 90) và việc này tạo cơ hội cho nhà trị liệu có thể mời gọi trẻ em làm “cố vấn” cho mình trong khi thực hiện cuộc đối thoại trị liệu (Andolfi, 1995). Đứa trẻ ngập ngừng và phát các tín hiệu không lời báo động các mối nguy hiểm có thể có và nhà trị liệu có thể sử dụng các dấu hiệu không lời của đứa trẻ như điểm khởi đầu để đối thoại đi xa hơn, không phải về chủ đề mối nguy hiểm, mà là về sự ngập ngừng và các lý do chính đáng khiến các thành viên gia đình không nói ra câu chuyện.

Chính thân chủ mới là “chuyên gia” chứ không phải nhà trị liệu và câu chuyện của thân chủ nên được xem là có tầm quan trọng trung tâm. Tuy nhiên, một phần câu chuyện của thân chủ được kể bằng cách thức không lời nên nếu không chú ý đầy đủ các biểu hiện không lời của các thành viên gia đình thì nhà trị liệu có thể bỏ qua những câu chuyện quan trọng không được kể. Việc lắng nghe một cách chân thành câu chuyện của thân chủ có nghĩa là lắng nghe với sự hiện diện đồng thời của cả những gì được nói ra lẫn những gì được thể hiện bằng cách thức không lời cùng với sự ảnh hưởng qua lại giữa hai kiểu thể hiện đó. Bằng cách ấy, những biểu hiện không lời có thể trở thành một cánh cửa để mở ra việc khám phá, tiếp cận các tầng sâu phức tạp trong sự hiểu biết và trải nghiệm của các thành viên gia đình, và có lẽ quan trọng hơn, nó giúp thiết lập một mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác giữa gia đình và nhà trị liệu.

Peter Rober, PhD is clinical psychologist, family therapist and family therapy trainer at Context -Center for marital and family therapy (UPC KU Leuven, Belgium). He is full professor and teaches family therapy at the Institute for Family and Sexuality Studies (medical school of K.U. Leuven, Belgium). His research interest areas focus on the practice of family therapy and on the therapy process, including especially the use of self of the therapist and the therapist’s inner conversation. Peter Rober published several articles in international family therapy journals. Since 1992, he has presented international workshops on family therapy with children and adolescents. Every year in August he organizes the European Summer School in Family Therapy in Leuven (Belgium), together with Jaakko Seikkula, John Shotter, Justine van Lawick and Jim Wilson.

Thứ Tư, 29 tháng 11, 2017

Liệu pháp chuyện kể

Nguồn: Narrative Therapy Center of Toronto 
http://narrativetherapycentre.com/narrative.html
Lược dịch: Nguyễn Minh Tiến



Liệu pháp chuyện kể (hay còn được dịch là “liệu pháp trần thuật” – Narrative Therapy) là một phương pháp tiếp cận dùng trong tham vấn và công tác cộng đồng (community work); dựa trên tinh thần “cùng làm việc”, “đồng tác động” (collaborative), nhãn quan “phi bệnh lý hóa” (non-pathologizing) và xem con người là những chuyên gia đối với những vấn đề của họ. Phương pháp tiếp cận này xem xét vấn đề tách biệt với con người và cho rằng con người vốn có những giá trị, năng lực và khả năng giúp họ thay đổi những mối liên hệ giữa họ và các vấn đề đang ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Đây là một cách thức làm việc có xem xét đến những bối cảnh sống rộng lớn của con người trên nhiều chiều kích đa dạng khác nhau như chủng tộc, giai tầng xã hội, giới, cùng những định hướng và khả năng về giới tính.

Những câu chuyện trong bối cảnh thực hiện liệu pháp chuyện kể được làm nên từ những sự kiện (events), kết nối với nhau bởi một chủ đề (theme), xảy ra theo dọc thời gian và theo một cốt truyện (plot). Một câu chuyện được hiện ra bao gồm trong đó một số sự kiện, được ưu tiên chọn lựa từ những sự kiện khác nhau, như là những sự kiện quan trọng hoặc có thật. Khi câu chuyện được định hình, nó sẽ tiếp tục “mời gọi” người kể bổ sung thêm những thông tin khác, nhưng chỉ một số thông tin nào đó được chọn trong khi thông tin về một số sự kiện khác lại có thể bị bỏ qua, và do vậy cùng một câu chuyện tương tự như thế vẫn cứ tiếp tục được kể. Những câu chuyện này vừa có vai trò mô tả, vừa có tính năng định hình cho nhãn quan của con người về cuộc sống của họ, về lịch sử cũng như về tương lai của chính họ. Thường thì vào lúc một thân chủ tìm đến việc trị liệu, những câu chuyện mà họ có được về bản thân và cuộc đời của họ phần nhiều có nội dung nổi trội với những “vấn đề”. Những câu chuyện kể trên dòng thời gian (timeline) khi ấy trở nên những câu chuyện “bị bão hòa bởi các vấn đề” và trở thành những “câu chuyện về bản sắc cá nhân” (identity story). Chẳng hạn như chúng ta có thể nghe ai đó tự mô tả về bản thân mình như sau “Tôi luôn luôn là một người bị trầm cảm”; hoặc một người vị thành niên có thể được mô tả như là “gã tội phạm trẻ tuổi” thay vì là một người trẻ gặp chuyện rắc rối về pháp luật. Những “câu chuyện định dạng bản sắc” như thế có thể gây nên những ảnh hưởng tiêu cực trên cách thức mà con người xem xét cuộc sống và năng lực của mình (vì dụ: “Tôi đã mất hết hy vọng”).

Những chuyên viên tham vấn và trị liệu trong thực hành với nhãn quan chuyện kể phải đồng hành cùng thân chủ để giúp họ đương cự lại với những ảnh hưởng và hệ lụy từ những câu chuyện nhuốm đầy vấn đề và những cách thức mô tả cuộc sống bị khiếm khuyết như thế. Trong những cuộc đối thoại trị liệu, công việc này bao gồm một sự lắng nghe và tìm kiếm những manh mối của những hiểu biết và những kỹ năng nơi thân chủ trái ngược với những nội dung chứa trong các câu chuyện bị bão hòa bởi những vấn đề ấy. Cần khám phá những gì mà ban đầu vốn chỉ là những “dấu vết nhỏ nhoi” của những “câu chuyện phụ”, nhưng trong đó chứa nội dung về những hy vọng, dự định, những cam kết, các giá trị, cùng những mong muốn và ước mơ… Cùng với tính chất hiếu kỳ và khám phá, những câu chuyện kể theo cách thức khác, với những nội dung ưu tiên tích cực hơn sẽ được làm đầy và càng lúc càng được mô tả phong phú thêm lên.


Do vậy, trong khuôn khổ làm việc theo kiểu chuyện kể, cuộc sống và bản sắc của con người được xem là có tính chất “bao gồm nhiều câu chuyện” (multi-storied) thay vì chỉ là “một câu chuyện” (single-storied). Hơn nữa, trọng tâm của cách tiếp cận không dựa vào “khả năng giải quyết vấn đề của chuyên gia”. Chính là thông qua những cuộc đối thoại, cả hai phía thân chủ và nhà trị liệu có thể “đồng khám phá” (co-discovering) những năng lực tiềm ẩn, chưa được phát hiện vốn ẩn bên trong những mạch chuyện chưa được hiển lộ (unseen story-lines). Tóm lại, những nhà thực hành liệu pháp chuyện kể sẽ cùng làm việc với thân chủ để “sáng tác lại” những câu chuyện về cuộc đời của họ.

Thứ Ba, 28 tháng 11, 2017

Bản ngã có tính đối thoại

Nguyên tác:  Hubert Hermans - Nhà tâm lý học Hà Lan, người đề xướng Học thuyết về Cái ngã có tính đối thoại (Dialogical Self Theory) và cách tiếp cận DSA
http://www.dialogicalinstitute.com/index.php/approach-methods/19-general/73-what-is-the-dialogical-self-approach
Người dịch: Nguyễn Minh Tiến


Phương pháp tiếp cận “bản ngã có tính đối thoại” (Dialogical Self Approach)

Bạn không phải là một thể thuần nhất (unity); bạn là một thể phức hợp (multiplicity) đang cố gắng trở nên một thực thể thuần nhất. Cách tiếp cận “bản ngã có tính đối thoại” (DSA) là phương pháp thực hành áp dụng trong việc hướng dẫn (coaching), huấn luyện (training) và tham vấn (counseling), qua đó, thân chủ được mời gọi thực hiện việc khám phá và hiểu biết về tất cả những khía cạnh khác nhau trong chính bản thân họ (chẳng hạn là, “tôi” như một người đang hưởng thụ đời sống, “tôi” như một người làm việc siêng năng, “tôi” như đứa con của cha mẹ tôi...), và những cảm xúc quan trọng của họ. Cách tiếp cận này chú trọng vào những khía cạnh khác nhau ở bản thân một con người, không chỉ với những ý nghĩa khác nhau về mặt cảm xúc, mà còn ngụ ý đến những sự đối lập và xung đột.

Một trong số những trách vụ quan trọng nhất trong đời sống đó chính là xây dựng một mối liên hệ giữa các khía cạnh đối lập nhau nhiều nhất trong bản thân mình và tìm cách lập nên một sự quân bình tương đối giữa những khía cạnh ấy. Để nhận ra điều này, bạn cần phải nhận biết đâu là mối liên hệ giữa các khía cạnh ấy. Một người khi trải qua tình trạng stress ở mức độ cao, có thể nhận thấy ra bản thân anh ta đang ở trong một vị thế nào đó (ví dụ, “tôi” như một người luôn luôn kiểm soát tốt), trong khi đó, những vị thế “tôi” khác (ví dụ, “tôi” như một người đang tìm kiếm chiều sâu và những ý nghĩa) đang tạo nên áp lực từ trong thâm sâu do chúng chưa được lưu tâm và thỏa mãn. Cách thức đưa những vị thế “tôi” khác nhau ấy để chúng được tiếp xúc với nhau sao cho mỗi bên có thể nhận biết các phía khác, từ đó có thể phối hợp với nhau thay vì tranh chấp với nhau.

Những gì bạn đang làm không hẳn đã ăn khớp với con người của bạn

Đôi khi có những người, trong nhiều năm, đã sống và làm việc từ một vị thế ‘tôi” riêng biệt nào đó có tính không ăn khớp với bản thân họ. Ví dụ, một người được xem bởi những người khác, và cũng bởi chính anh ta, như một người thành công trong một công ty gia đình, nhưng anh ta lại có cảm nhận về một sự bất mãn mơ hồ khi bản thân mình chẳng bao giờ được hiểu một cách đầy đủ. Trong những trường hợp như thế, phương pháp DSA sẽ giúp họ nhận biết về những vị thế “tôi” (I-positions) nằm tiềm ẩn bên trong, nhưng một khi được kích hoạt, lại có thể biểu hiện một cách mạnh mẽ. Việc này có thể làm cho người ấy phát hiện ra trong mình có một ao ước xuất hiện từ lâu, nhưng chưa bao giờ được thỏa mãn,  và cũng chưa bao giờ được nhận biết: đó là để khởi đầu cho một nghiên cứu hoặc để trở nên đi sâu vào nghệ thuật. Việc nhận ra những ao ước này có thể giúp người ấy có được con đường làm nên những ý nghĩa mới cho đời sống của mình.

Trong tiểu thuyết  The Steppenwolf, Herman Hesse đã viết về Harry, một người có hai tính cách đối lập nhau: một con sói và một con người. Con sói thì có tính chất hoang dã và luôn tìm kiếm tự do, ứng xử xung động và hỗn độn; phần con người thì lại kết nối với những tư duy, với văn hóa và với bản chất cao thượng.

“Niềm tin sâu sắc ấy thúc đẩy anh ta hướng đến tinh thần, đến Thượng Đế, còn những ao ước nóng bỏng kia lại đưa anh ta người về với thiên nhiên, với mẹ. Cuộc sống của anh ta lắc lư giữa những lực ấy, trong lo âu run rẩy...”

Hai mặt của con người anh ta, khi chống nhau, khi chiến tranh với nhau, thì cái này muốn tiêu diệt cái kia...

Harry muốn loại bỏ một trong hai mặt khác nhau ấy. Khi anh ta cảm thấy năng lượng của sói trỗi dậy, anh muốn quên đi phần con người; còn khi anh ở vào vị thế con người, anh lại muốn loại bỏ đi phần sói trong anh ta.

Vấn đề thực sự không nằm trong sự khác biệt, mà là ở mối liên hệ, tức là sự đối kháng thường xuyên giữa hai phần ấy.

Câu hỏi để tự phản ảnh:
- Có những khía cạnh nào đối lập nhau nhiều nhất trong con người bạn?
- Có những tình thế nào để chúng có thể hợp tác được với nhau hay không?

Một con người nhưng có những mặt (khía cạnh) khác nhau

Tính đa dạng của những vị thế “tôi”, cả trong ý thức lẫn trong vô thức, cùng với những cảm xúc đi kèm theo chúng, là trọng tâm trong cách tiếp cận DSA. Tuy nhiên, cơ bản của phép tiếp cận ày còn rộng hơn thế. Các vị thế “tôi” không đứng riêng lẻ, tách rời nhau, mà có thể trở nên được bao gồm trong những cuộc “đối thoại” qua lại với nhau (vì thế mới có tên gọi là “bản ngã có tính đối thoại”). Một ai đó có thể trải nghiệm sự xung đột giữa hai vị thế “tôi”, ví dụ như “tôi vừa muốn có một thách thức mới trong công việc, vừa vẫn muốn có sự an toàn và chắc chắn”. Vị thế thứ nhất thôi thúc người ấy rời khỏi cơ quan nơi mình đang làm việc để tìm kiếm một công việc mới. Tuy nhiên, cùng lúc, người ấy lại lo sợ bước đi này sẽ khiến mất đi sự an toàn của công việc đang làm. Rồi khi bên trong người ấy bắt đầu mối quan hệ mang tính đối thoại giữa hai vị thế nói trên, người ấy có cơ hội để “đi tới, đi lui” giữa hai vị thế, khảo sát sâu về chúng, và rồi sau đó, tìm thấy được một “vị thế thứ ba”, tại đó có thể hội tụ được hai vị thế đối lập ban đầu. Theo cách này, người ấy đi đến quyết định rằng sẽ tiếp xúc với sếp của mình để bàn bạc về khả năng có một công việc mới trong cơ quan làm việc hiện thời của mình. Giải pháp này, dưới hình thức một vị thế thứ ba, mang đến cho người ấy một cơ hội thách thức mới, trong khi vẫn không mất đi sự an toàn mà người ấy vẫn xem là quan trọng.

Một con người khác như là một phần của chính bạn

Một nét đặc biệt trong DSA đó là có những con người quan trọng làm nên những phần trong  cái ngã có tính đối thoại của chúng ta. Cha, mẹ, anh, chị, thầy, bạn, đồng nghiệp... đều có thể trở nên thành phần của một bản ngã được mở rộng ra bên ngoài môi trường xã hội. Một người nào đó có thể quen với cách suy nghĩ, cảm nhận, hành xử, như thể cha hoặc mẹ mình vẫn thường làm thế. Nếu không nhận biết được việc này, người ấy có thể vẫn bắt chước theo cách của cha hoặc mẹ mình trong chính cách thức của mình, hoặc vẫn làm mãn nguyện những ước muốn của cha mẹ ngay cả khi họ đã qua đời. Bằng cách thực hiện cuộc khảo sát bản thân dựa trên nền tảng cách tiếp cận DSA, người ấy sẽ được đối diện với câu hỏi rằng đâu mới là vị thế của chính mình và được thách thức làm một sự phân biệt rõ giữa đâu là điều cha mẹ mình muốn và đâu là điều mà chính bản thân mình muốn. Trong việc nghiên cứu và ứng dụng lâm sàng của chúng tôi, chúng tôi nhận thấy rằng những ai khác nếu có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời của một người đều có những vị trí nổi trội bên trong cái ngã có tính đối thoại của người ấy, và những “vị thế đến từ bên ngoài” ấy - theo như cách gọi của chúng tôi - có thể gây lấn át các vị thế khác, kết quả là những vị thế kia sẽ không thể biểu lộ một cách đầy đủ, và sự an lành của tâm trí cũng phải trả giá. DSA không chỉ lưu tâm đến mối quan hệ có tính đối thoại giữa những vị thế “tôi”, mà còn chú trọng đến những tính chất nổi trội tương đối và cạnh tranh ở giữa chúng với nhau.

Trong cái bóng của chính bạn

DSA không chỉ chú trọng đến những vị thế “tôi”, những thành phần mà chúng tôi xem là có tính tích cực và quý giá trong bản thân chúng ta, mà còn chú trọng đến những vị thế “tôi” và những cảm xúc không mong muốn, thậm chí cả khi chúng là những cảm xúc hoàn toàn không thể chấp nhận được. Một người có thể tự xem mình là người “hay chỉ trích”, cho đến khi anh ta nhận ra rằng mình chủ yếu chỉ trích những ai mà anh ta cho là người thành công. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ, có thể lại thấy rằng anh ta ganh tỵ nhưng lại không thể mở lòng tự thừa nhận về việc này. Chúng tôi mô tả điều này là “vị thế góc khuất” (shadow position), một khía cạnh trong con người của chúng ta, rõ ràng nó vẫn ở đó và gây ảnh hưởng lên trên hành vi và cách đánh giá của chúng ta. Do bởi vị thế này thường không được chấp nhận và thậm chí bị kìm nén, nó sẽ biểu hiện ra dưới hình thức ngụy trang, làm mất đi tính chân thực của chúng ta, không chỉ trong mối quan hệ với người khác mà còn đối với chính chúng ta. Những vị thế "góc khuất" ấy thường dẫn đến những hệ quả có ý nghĩa về mặt cảm xúc: những cảm xúc bên trong bản ngã được tổ chức lại thành nhiều tầng lớp khác nhau. Bên dưới một cảm xúc tiêu cực, có một cảm xúc khác sâu hơn có thể được che giấu. Bên dưới sự bực bội, tức giận, có thể có một nỗi lo âu đang trú ngụ, hoặc bên dưới một thái độ mỉa mai, châm biếm, có thể là một nỗi đau hoặc một tình trạng nhạy cảm quá đáng. Thông qua những hình thức khảo sát đi sâu, DSA giúp thăm dò những tầng lớp khác nhau của cảm xúc và mang chúng ra tiếp xúc với nhau, cũng như tiếp xúc với các thành phần khác của bản ngã.

Bị giam cầm trong vị thế “tôi” của chính bạn

Nếu trong công việc cũng như trong cuộc sống, chúng ta dành phần cho sự hiện thực hóa một vị thế “tôi” đặc biệt nào đó càng lâu, thì chúng ta càng làm cho nó trở nên vững chắc hơn bên trong bản ngã của chúng ta. Đến lúc nào đó, chúng ta sẽ nhận ra rằng mình đã bị “giam cầm” trong vị thế ấy. Ví dụ một người, trong công việc, đã quen với việc cạnh tranh và sống với những cao vọng, có thể theo thời gian sẽ cảm thấy mình bị khóa chặt trong vị thế ấy. Điều đó có thể khiến cho anh ta khó khăn cảm thấy động lòng một cách chân thành với người khác hoặc sẽ khó có thể gắn bó trong mối quan hệ ấm áp với một ai khác. Trong trường hợp ấy, DSA sẽ mang đến những phương pháp giúp khởi hoạt lại những vị thế “tôi” từ lâu đã bị lãng quên, bị kìm nén, hoặc giới thiệu cho người ấy những vị thế mới. Một sự mở rộng “trữ lượng những vị thế tôi” sẽ giúp kích thích sự linh hoạt của người ấy trong việc thay đổi từ vị thế cao vọng sang những vị thế khác để có thể làm giảm bớt tính cứng nhắc trong bản ngã của người ấy.

Lợi ích và những ứng dụng

DSA giúp cho hai khía cạnh đời sống cá nhân và đời sống nghề nghiệp được mang lại gần với nhau như hai mặt của một đồng tiền. Sự đa dạng của những vị thế “tôi”, cùng mối quan hệ có tính đối thoại giữa chúng, là những trọng điểm cần được chú ý. Những xung đột, mâu thuẫn và đối lập xảy ra bên trong bản ngã vốn là điều bình thường, và thậm chí có thể trở thành nguồn lực cho sự sáng tạo. Mục đích của cách tiếp cận là khảo sát những vị thế “tôi” quan trọng đã làm nên những thành phần bên trong bản ngã của chúng ta trong xã hội đương đại, cả với những khả năng lẫn tính chất không chắc chắn của chúng, rồi liên hệ chúng với nhau theo một cách thức sao cho sự cộng tác và liên kết giữa chúng có thể xảy ra. DSA đặc biệt hữu dụng trong việc tái định hướng về công việc và trong việc học, các vấn đề trong nghề nghiệp, stress và kiệt sức (burnout), các vấn đề về bản sắc và trong những mối quan hệ xã hội.


Mỗi đứa trẻ là một nghệ sĩ

Nguyên tác: Carolyn Mehlomakulu, nhà trị liệu hôn nhân - gia đình và trị liệu nghệ thuật, ĐH Loyola Marymount, Los Angeles, Hoa Kỳ.
Nguồn: "How to Talk to Kids About Their Art" - Blog "Creativity In Therapy"
Lược dịch: Nguyễn Minh Tiến

Image result for How to Talk to Kids About Their Art

"Mỗi đứa trẻ là một nghệ sĩ. Vấn đề là làm sao để duy trì con người nghệ sĩ ấy một khi chúng ta lớn lên." _ Pablo Picasso

Khi một đứa trẻ đem khoe sản phẩm nghệ thuật mà trẻ mới sáng tạo nên, người lớn chúng ta thường hay mở lời khen ngợi trẻ: "Ồ, giỏi quá!" hoặc "Thật là đẹp!"

Mặc dù là có ý tốt, những lời khen này thực sự KHÔNG hữu ích lắm nếu chúng ta muốn khuyến khích trẻ giãi bày thông qua nghệ thuật. Việc này cần được lưu ý cả khi ta tương tác với trẻ ở nhà lẫn trong bối cảnh khi làm trị liệu.

Nếu ngạc nhiên khi nghe thấy điều này, bạn nên suy nghĩ đôi điều sau đây:

- Trẻ nên làm nghệ thuật dựa trên chính ý tưởng, sở thích và khả năng sáng tạo của chính mình;
- Trẻ nên tự mình trải nghiệm cảm giác vui thích, tự hào và cảm nhận về sự hoàn thành công việc trong khi làm nghệ thuật;
- Trẻ nên được tự do trong việc đón nhận lấy những nguy cơ cũng như có lúc phạm sai lầm trong khi làm nghệ thuật;
- Trẻ nên được phép làm sản phẩm nghệ thuật theo kiểu bừa bộn, xấu xí, hoặc đơn giản chỉ cho vui mà thôi;
- Trẻ cũng nên làm nghệ thuật mà không bị phán xét hoặc so sánh.

Nếu bạn là một nhà trị liệu nghệ thuật, khi làm việc với trẻ, bạn nên tránh nói ra những lời tán thưởng hoặc những lời bình có ý phán xét. Bạn có lẽ nên nói để thân chủ của bạn hiểu rằng "tiến trình quan trọng hơn là sản phẩm" và điều chính yếu trong nghệ thuật trị liệu không phải chỉ để làm nên những sản phẩm đẹp mắt!

Đừng để trẻ hình thành thói quen chỉ biết dựa trên sự chấp thuận, hài lòng của những người lớn. Lòng tự tin và tự trọng thực sự chỉ được hình thành dựa trên sự cảm nhận của trẻ về chính khả năng của mình, cảm nhận về sự tự hào và tự làm chủ bản thân của chính mình. Lòng tự trọng nếu chỉ dựa trên sự ngợi khen của người khác thì sẽ rất mong manh và dễ bị thương tổn.

Không phải sản phẩm nghệ thuật nào cũng có tính "hoàn hảo" và xứng đáng để được khen ngợi. Trẻ không nên bị mắc mứu vào chuyện khen chê hoặc phải tuân theo sự kỳ vọng đến từ bên ngoài, mà từ đó khiến trẻ lo ngại chuyện mình bị thất bại. Sự sáng tạo thực sự chính là phải biết sẵn lòng đón nhận những nguy cơ.

Kết quả nhận được từ tiến trình sáng tạo là ở chỗ giúp trẻ vui thú và khám phá, chứ không phải để tạo nên những sản phẩm "đẹp". Ngay cả những lời khen cũng có thể khiến trẻ nhập tâm những sự phê phán và so sánh, rồi sau đó trẻ tự phán xét chính mình - Có sản phẩm "tốt" thì ngược lại cũng sẽ có những sản phẩm "không tốt"!


Điều nên làm là bạn có thể nói chuyện với trẻ về những gì trẻ tạo nên thông qua sản phẩm. Bên trong những sản phẩm đó, có thể chất chứa những "câu chuyện" mà đứa trẻ muốn nói ra...

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

CON NUÔI

Nguyên tác: Kathryn Patricelli, Adoption, MA - MentalHelp.Net
Lược dịch: NGUYỄN MINH TIẾN; theo phiên bản cập nhật ngày 22/1/2007
(Bài đã đăng trên website Tâm lý Trị liệu năm 2010)
Phiên bản mới tiếng Anh tại đây:
http://www.mentalhelp.net/poc/view_doc.php?type=doc&id=11455&cn=11

Image result for adopted child

Không giống như những trường hợp trẻ có hoàn cảnh đặc biệt được bố trí nuôi dưỡng (foster care) tạm thời hoặc dài hạn ở những cơ sở nuôi dưỡng trẻ, việc nhận con nuôi là một tình trạng hoàn toàn khác. Nhận con nuôi là một tình trạng được quy định bởi pháp luật và đòi hỏi có những cam kết đặc biệt. Nhận con nuôi là việc bố trí một đứa trẻ, theo những nguyên tắc luật định, vào một môi trường sống thường xuyên với bố mẹ nuôi (một người hoặc một cặp vợ chồng) không phải bố mẹ ruột của trẻ. Trong quá trình chuyển giao này, quyền nuôi con của bố mẹ ruột thường phải được chấm dứt hẳn. Cha mẹ nuôi khi đó phải đảm nhận đầy đủ các trách nhiệm đối với đứa trẻ trước pháp luật. Và đứa trẻ sẽ hưởng đủ những quyền lợi như một người con được sinh ra bởi cha mẹ nuôi. 

Việc nhận con nuôi có nghĩa là mối liên hệ giữa cha mẹ nuôi và trẻ có tính quy định bởi pháp luật và điều này được ràng buộc cho cả hai phía chứ không đơn thuần chỉ để tạo thuận tiện. Sẽ là phạm tội nếu người nhận nuôi trẻ sau đó ruồng bỏ trẻ. Luật cũng quy định việc cha mẹ nuôi phải thực hiện những quyết định một cách nghiêm túc về những việc có ảnh hưởng đến số phận của trẻ, kể cả việc chọn trường, chọn tôn giáo cho trẻ đến phương pháp giáo dục và kỷ luật đối với trẻ... Những người nhận nuôi trẻ tạm thời hoặc ngẫu nhiên thì không có cùng những trách nhiệm luật định như vậy.

Nói chung, nhận con nuôi là một việc có liên quan đến rất nhiều thủ tục giấy tờ, cần đến sự hỗ trợ của luật sư, nhân viên xã hội và thẩm quyền quyết định của tòa. Nhận con nuôi là một tình trạng sắp xếp đứa trẻ sống chung với cha mẹ nuôi một cách dài hạn giống như mối quan hệ cha mẹ và con cái ruột thịt vậy. Đối với phần lớn gia đình nhận con nuôi, đây thường là một việc dựa trên tình yêu thương và khát khao làm phong phú đời sống gia đình của họ, vì thế đời sống của đứa trẻ sẽ trở thành một phần của gia đình đó.

Có nhiều lý do khiến người ta nhận con nuôi. Những bà mẹ cho đứa con ruột của mình để người khác nhận nuôi phần đông thường là những bà mẹ đơn thân. Một số trường hợp, trẻ có đủ bố mẹ, nhưng vẫn được cho làm con nuôi chủ yếu là do những khó khăn về tài chính không thể nuôi đứa trẻ đó hoặc phải nuôi quá nhiều con. Một phụ nữ trẻ cũng có thể xem xét việc cho con mình khi biết mình mang thai với một người không có quan hệ tình cảm chắc chắn, hoặc bản thân người phụ nữ ấy không sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm làm mẹ đơn thân. Một số thấy mình còn quá trẻ, chưa sẵn lòng cho việc nuôi con. Trong những trường hợp như thế, người mẹ có thể nhận thấy cách tốt nhất là tìm cách cho con mình để người khác nhận nuôi.                         

Một số tình huống khác có thể xảy ra là khi người mẹ ruột vì lý do gì đó đã bị chấm dứt quyền nuôi con bời pháp luật, ví dụ: do bà mẹ có những hành vi thiếu trách nhiệm, hoặc ngược đãi đứa trẻ, lạm dụng ma túy hoặc một số tình huống khác gây tổn hại cho đời sống đứa trẻ. Nếu người mẹ không chứng minh khả năng cũng như sự sẵn lòng thay đổi những hành vi hiện có (ví dụ: không bỏ ma túy hoặc vẫn tiếp tục hành hạ đứa trẻ), quyền nuôi con có thể bị chấm dứt bởi pháp luật và đứa trẻ có thể được bố trí vào các cơ sở nuôi dưỡng trẻ hoặc bố trí được nhận nuôi bởi một gia đình khác. Cách thức làm việc này có thể khác nhau ở các quốc gia và các nền văn hóa khác nhau.

Về phần gia đình nhận con nuôi thì cũng có nhiều lý do khác nhau để họ có quyết định này, và quá trình thực hiện cũng có thể diễn ra theo nhiều hướng khác nhau một khi nó đã bắt đầu. Trong mọi trường hợp, có thể sẽ xuất hiện các chủ đề cần được nhận diện và giải quyết kể từ lúc nhận đứa trẻ vào gia đình cho đến khi cả hệ thống gia đình trở nên hài hòa. Tuy nhiên, với sự hướng dẫn, hỗ trợ, với nguyện vọng và nỗ lực, gia đình cha mẹ nuôi và đứa trẻ có thể làm nên những bước tiến lớn và xây dựng được một gia đình mà họ hằng mơ ước. 

CÁC VẤN ĐỀ LÂU DÀI MÀ ĐỨA TRẺ CÓ THỂ ĐỐI DIỆN

Một số vấn đề có thể nẩy sinh khi trẻ bắt đầu nhận ra mình được cho làm con nuôi. Trẻ có thể trải qua những ưu sầu khi mất đi mối quan hệ và sự gắn kết với cha mẹ ruột. Cảm nhận về sự mất mát này có thể rất sâu đậm trong những trường hợp nhận con nuôi đi kèm với việc mất hoặc có quá ít thông tin về cha mẹ ruột và gia đình gốc. Những cảm xúc đau khổ này có thể được kích hoạt bất cứ lúc nào trong cuộc đời của trẻ, kể cả thời điểm trẻ lần đầu tiên biết mình là con nuôi, vào thời gian đầy xáo trộn của tuổi vị thành niên, khi một thành viên nào đó trong gia đình mất đi, hoặc khi đứa trẻ lớn lên kết hôn và có con... Cũng có thể có những mối bận tâm đáng kể về cảm nhận rằng mình đã từng bị “ruồng bỏ”, hoặc “có thể bị ruồng bỏ” và quá khứ “không tốt” của mình, kèm theo là những tổn thương khi nhận thấy rằng “mẹ ruột đã từng chối bỏ mình”, “đem mình cho người khác” hoặc “không muốn có mình nữa”... Cảm xúc đau buồn kia có thể trở nên phức tạp thêm, nếu sau đó trẻ biết được người mẹ ruột của mình và những đứa con khác mà bà chọn lựa giữ lại để nuôi dưỡng.                      

Trẻ con nuôi cũng có thể bị mất đi những thông tin về lịch sử gia đình, bao gồm những thông tin về mặt y học, di truyền và sức khỏe, mặc dù những cơ quan nuôi dưỡng trẻ hoặc các tổ chức cho nhận con nuôi cũng cố gắng có những ghi nhận lại về lai lịch của trẻ nhưng thường cũng không đầy đủ. Thậm chí, sau này khi trẻ đến bác sĩ để khám bệnh, chỉ cần được hỏi về tiền sử các bệnh tật của gia đình thì những cảm xúc đau buồn, khó chịu cũng có thể xuất hiện trở lại, gợi nhớ về thân phận “con nuôi” của trẻ, điều làm cho trẻ cảm thấy mình có sự khác biệt với những trẻ khác.

Trẻ con nuôi phải đấu tranh rất nhiều trong việc hình thành lòng tự trọng và trong quá trình hình thành bản sắc cá nhân so với những trẻ sống với cha mẹ ruột. Các chủ đề liên quan đến bản sắc cá nhân trở thành mối bận tâm đặc biệt đối với những vị thành niên biết mình là con nuôi, nhất là những trường hợp mất đi rất nhiều thông tin từ gia đình gốc. Những trẻ đó thường tự hỏi tại sao mình lại được nhận làm con nuôi; trẻ cũng thắc mắc cha mẹ ruột và gia đình gốc của mình như thế nào, làm gì và sống ra sao... Trẻ cũng đấu tranh rất nhiều khi biết rằng mình có một gia đình hiện đang “ở đâu đó”, với những anh chị em và những thành viên khác trong đại gia đình mà mình chưa hề gặp mặt. Những chủ đề vẫn có thể nẩy sinh trong trường hợp trẻ biết thông tin về gia đình gốc, tuy nhiên trong tình huống đó, trẻ có cơ hội để duy trì được một cách liên hệ thế nào đó với mẹ ruột của mình và có thể trực tiếp có được những thông tin thỏa đáng về gia đình gốc của mình.

Những cảm giác có lỗi cũng có thể kèm theo những vấn đề và các bận tâm về nhân thân. Trẻ con nuôi có thể cảm thấy mình đang phản bội hoặc đang làm tổn thương gia đình cha mẹ nuôi khi bày tỏ ước muốn được biết về gia đình gốc của mình. Trong viễn cảnh tốt nhất, trẻ có thể không nhất thiết có những bận tâm như thế nếu như cha mẹ nuôi có thể trực tiếp nêu ra trước những nỗi bận tâm của họ. Ngay cả trong tình huống đó, trẻ vẫn ít nhiều cảm thấy đau khổ và khó khăn.

Điều hiển nhiên là khi nhận con nuôi, cha mẹ nuôi thường lựa chọn những trẻ có sự tương đồng về thể chất với bản thân mình (ví dụ ở các nước đa chủng tộc thì phải có cùng màu da, cùng chủng tộc...) để tránh nẩy sinh những câu hỏi từ người ngoài về nhân thân của trẻ. Một số trẻ con nuôi cũng có thể bị chúng bạn trêu chọc và cảm thấy xấu hổ vì mình là con nuôi.

Không phải tất cả trẻ con nuôi đều biểu thị mối quan tâm đến lịch sử gia đình gốc của mình. Một số trẻ dần trở nên nhận thức được điều rằng hầu hết các trường hợp cho con nuôi đều xảy ra khi người mẹ ruột gặp khó khăn về tài chính hoặc không có tình cảm yêu thương để nuôi con, do vậy trẻ thấy rằng mình sẽ chẳng được gì cả khi thắc mắc hoặc tìm kiếm thông tin về gia đình gốc của mình. Những trẻ như thế thích xem việc mình là con nuôi như thể một “thỏa thuận đã được thực hiện” và cứ sống với những người thân hiện tại; quá khứ cứ ở lại trong quá khứ. Chẳng có gì sai khi đứa trẻ bày tỏ quan tâm về gia đình gốc của mình, và cũng chẳng có gì sai cả khi đứa trẻ không thể hiện một sự quan tâm như thế. Cả hai tình huống đều “bình thường”, nếu không nói là cả hai tình huống đều có lúc khiến trẻ đau khổ.

NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NGƯỜI MẸ RUỘT SAU KHI CHO CON NUÔI

Mặc dù quá trình cho nhận con nuôi là một việc làm theo luật định và quyền nuôi con của mẹ ruột đã chấm dứt nhưng người mẹ ruột vẫn chẳng thể quên hoặc ngừng bị ảnh hưởng bởi việc cho con nuôi. Ngay cả khi có sự đoan chắc rằng việc cho con nuôi là một việc đáng làm, việc này vẫn là một quá trình khó khăn, đau buồn đối với nhiều người mẹ, và vẫn ảnh hưởng đến cuộc sống của họ nhiều năm sau đó.

Trước tiên, người mẹ có thể trải qua nỗi đau buồn do mất con. Ngay cả khi nỗi đau buồn này đã qua, nó vẫn có thể trỗi dậy trở lại và có thể được cảm nhận như là “mới vừa xảy ra” vào những thời điểm có tính “kỷ niệm”, chẳng hạn như đến ngày sinh nhật của trẻ chẳng hạn... Trong trường hợp cho con nuôi “đóng” (close adoption: nghĩa là gia đình gốc không biết gì về trẻ), người mẹ ruột có thể đau khổ vì bị mất khả năng chia sẻ với đứa trẻ khi có những sự kiện quan trọng trong đời sống của trẻ. Trường hợp cho con nuôi “mở” (open adoption: nghĩa là gia đình gốc vẫn biết về trẻ), người mẹ ruột vẫn có thể gặp khó khăn bởi vì bà có thể vẫn hiện diện khi có những sự kiện như thế và hành xử như thể là mẹ của trẻ nhưng thay vì thế bà chỉ ở vào vị thế của một người hơi một chút trên mức bạn thân hoặc bà con trong họ mà thôi. Bà có thể đau buồn vì đã mất đi một quan hệ thân thiết mà “lẽ ra bà đã có thể có” đối với trẻ.

Tuy vậy, những nỗi đau buồn của mẹ ruột trong trường hợp cho con nuôi “đóng” có thể phần nào được nguôi ngoai bởi ý nghĩ rằng trẻ đã có thể có được những cơ hội và trải nghiệm sống tốt hơn trong gia đình đã nhận nuôi trẻ. Trường hợp cho con nuôi “mở”, người mẹ ruột có thể trực tiếp nhìn thấy những cơ hội, niềm vui và hạnh phúc mà con mình đã nhận được từ gia đình nhận nuôi trẻ, và cũng nhận thấy rằng bà đã làm được điều hay trong số nhiều lựa chọn cho con.

Chuyện hôn nhân trong tương lai của người mẹ ruột cũng chịu ảnh hưởng bởi việc cho con nuôi. Bà phải quyết định có nên bàn với người yêu hoặc chồng mình về việc đã cho con nuôi trong quá khứ hay không, và (trong trường họp cho con nuôi “mở”) vai trò của người kia sẽ như thế nào trong mối quan hệ vẫn đang tiếp diễn của bà với đứa trẻ. Việc có kể ra chuyện đã cho con nuôi hay không là một quyết định rất khó khăn vì người mẹ ruột của trẻ lo sợ sẽ bị người yêu hoặc chồng mình phê phán, chê trách. Bà cũng phải suy nghĩ và quyết định xem có nên chia sẻ thông tin về đứa con đã cho người khác nuôi với những đứa con khác trong tương lai của mình hay không và khi đó (trong trường hợp cho con nuôi “mở”) sẽ định hình mối quan hệ như thế nào giữa đứa con sau này với người anh hoặc chị cùng mẹ đã được cho con nuôi.

NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI KHÁC VỀ VIỆC CHO CON NUÔI VÀ CÁC CHỦ ĐỀ CẢM XÚC KHÁC

Người mẹ muốn cho con nuôi thường thấy khó khăn trong việc kể chuyện này cho bạn bè và người thân. Đặc biệt là khi trong gia đình có người chống lại ý định này; họ có thể phản đối ý định cho con và muốn người mẹ tự mình nuôi con. Tuy nhiên, quyết định sau cùng vẫn là của người mẹ tùy theo lợi ích của đứa trẻ và người mẹ. Dẫu sao người mẹ cũng rất cần sự hỗ trợ của gia đình mình khi bà đang trải qua quá trình suy nghĩ và cho con nuôi. Đồng thời, những cảm giác đau buồn và mất mát cũng xảy ra không chỉ cho người mẹ mà có thể ở cả những người thân khác trong gia đình và cần thời gian để nguôi ngoai.

Những vấn đề cảm xúc mà người mẹ có thể gặp phải trong quá trình cho con nuôi bao gồm đau khổ, xấu hổ, có lỗi và ngờ vực. Ngay cả khi việc cho con nuôi được xem là giải pháp tốt nhất cho đứa trẻ và cho bản thân thì người mẹ vẫn cảm thấy mình bị thất bại trong vai trò một người mẹ. Một trải nghiệm khác cũng thường gặp đó là ý nghĩ rằng vì mẹ đã từ chối con nên đứa con sau này sẽ căm ghét bà vì bà đã ruồng bỏ nó. Bà cảm thấy xấu hổ khi phải trả lời cho các câu hỏi liên quan đến việc mang thai đứa trẻ và về quyết định đã trao đứa trẻ cho người khác nuôi.

Sự hoài nghi, ngờ vực có thể xảy ra bất cứ khi nào có một quyết định quan trọng trong đời và nó có thể xảy ra trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình suy nghĩ và quyết định cho con nuôi từ lúc còn mang thai cho đến cả sau khi đã sanh đứa trẻ. Cảm xúc ngờ vực khi xảy ra không có nghĩa quyết định cho con nuôi là thiếu căn cứ chắc chắn. Ở những quốc gia có dịch vụ đầy đủ về cho nhận con nuôi, người mẹ trong trường hợp đó cần phải trao đổi với nhân viên xã hội hoặc nhà tham vấn về những nỗi bận tâm của mình để xem xét lại lý do khiến mình quyết định cho con nuôi.

Sau khi sinh trẻ, người mẹ thường trải qua những cảm nhận về sự đau buồn và mất mát nhất là khi trẻ được chuyển giao cho gia đình cha mẹ nuôi. Mặc dù trẻ vẫn sống, vẫn hiện hữu một trải nghiệm thực sự về sự mất mát mà người mẹ phải nỗ lực để thích ứng. Cảm xúc đau buồn (grief) là một tiến trình cảm xúc mà con người trải nghiệm khi những mối quan hệ quan trọng của mình bị gián đoạn hoặc kết thúc, chẳng hạn như cái chết, chia ly, ly hôn, hoặc khi những thứ quan trọng bị hủy hoại hay mất mát. Có hai hình thức mất mát khiến con người đau buồn. Loại thứ nhất là khi có một sự mất mát thực sự một người hoặc một thứ gì đó rất quan trọng trong đời sống; loại mất mát thứ hai là sự mất mát có tính biểu trưng của những sự kiện đã không thể xảy ra trong tương lai do có sự mất mát thực sự đã nêu trên. Khi cho con nuôi, người mẹ ruột có thể đau buồn vì sự ra đi của đứa trẻ để sang sống ở gia đình khác (mất mát thực); thêm vào đó, bà còn đau khổ vì bị mất đi những sự kiện có ý nghĩa mà lẽ ra bà có thể chia sẻ với đứa trẻ sau này như sinh nhật, lễ tốt nghiệp hoặc ngày cưới chẳng hạn.

Đau buồn là một tiến trình bình thường và tự nhiên mà con người phải cố sức để vượt qua. Việc đương đầu với những cảm xúc xảy ra trong tiến trình đau khổ làm cho con người mất nhiều thời gian và năng lượng, kể cả về thể chất lẫn tinh thần. Con người thường cũng có thể biểu hiện đau buồn bằng nhiều cách. Có người bộc lộ sự đau buồn ra ngoài; có người lại che giấu nó vào bên trong. Một số người có sự đau buồn qua nhanh; số người khác lại cần nhiều thời gian mới có thể nguôi ngoai được nỗi khổ. Tất cả đều bình thường. Không có cách đau buồn nào là “đúng” cả. Hay nói cách khác, mỗi người chọn kiểu đau buồn thích hợp nhất với bản thân mình và với sự mất mát của mình.

Tiến trình cho con nuôi cũng có thể kích hoạt những cảm xúc tích cực. Một số phụ nữ cảm thấy vui và đầy hy vọng khi đang thu xếp một đời sống tương lai tốt đẹp cho con. Họ tập trung vào những giấc mơ và ước muốn về đứa trẻ và những cơ hội mà nó có thể có trong gia đình của cha mẹ nuôi, những điều mà họ không có khả năng lo được cho con. Ngoài ra, người mẹ cũng cảm thấy được giảm nhẹ rất nhiều vì sẽ không còn đối diện với tình huống khó khăn là phải xem xét với quá nhiều những lựa chọn cho tương lai của con. Cũng có thể có những cảm giác tích cực khác chẳng hạn như lòng biết ơn đối với cha mẹ nhận nuôi trẻ hoặc cảm giác hài lòng vì mình đã giúp đỡ một cặp vợ chồng hiếm muộn đã nhiều năm chờ đợi trải nghiệm được vai trò làm cha mẹ.

CÁC HÌNH THỨC CHO NHẬN CON NUÔI

Mặc dù có những khác biệt giữa các quốc gia, nói chung có ba hình thức cho nhận con nuôi được quy định bởi luật.

Hình thức “đóng” (closed adoption)

Là hình thức cho nhận con nuôi trong đó cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi không tiếp xúc với nhau, chẳng hề gặp nhau và không nhận thông tin gì về nhau cả. Mẹ ruột giao hẳn trẻ cho cơ quan phụ trách con nuôi và không nhận thông tin gì về gia đình nhận nuôi trẻ. Tất cả những thông tin về gia đình gốc của trẻ cũng được tòa án niêm phong. Các thông tin này không được công bố cả cho gia đình cha mẹ nuôi lẫn cho bản thân đứa trẻ, ngoại trừ thông tin về tình trạng sức khỏe, bệnh tật của cha mẹ ruột. Ở Hoa Kỷ, hầu hết các các dạng cho nhận con nuôi cho đến nay đều ở dạng “đóng”; tuy nhiên, hình thức này đang giảm dần bởi vì trong nhiều trường hợp người mẹ ruột ngày nay có khuynh hướng muốn biết về việc ai sẽ là người sau cùng nhận nuôi trẻ.

Hình thức “nửa đóng, nửa mở” (semi-open adoption)

Là hình thức cho nhận con nuôi trong đó người mẹ ruột có một phần tham gia vào việc lựa chọn gia đình nào sẽ có cơ hội nhận nuôi đứa trẻ. Trong hình thức này, một danh sách các gia đình có tiềm năng nhận con nuôi sẽ được trình bày cho người mẹ ruột và bà có thể lựa chọn gia đình nào mà bà nghĩ rằng thích hợp nhất dành cho con mình. Mặc dù nhiều thông tin về các gia đình tiềm năng này được cung cấp cho người mẹ, các thông tin liên quan đến nhận dạng cá nhân như họ tên, địa chỉ sẽ không được cung cấp. Việc tiếp xúc cá nhân giữa mẹ ruột và gia đình được chọn có thể xảy ra hoặc không xảy ra trong quá trình cho nhận con nuôi tùy theo nguyện vọng của hai phía đối tác tùy trường hợp. Một số gia đình có thể chọn cách gặp nhau trong thời gian trước khi đứa trẻ được sinh ra; một số lại chọn cách duy trì sự ẩn danh. Trong mọi trường hợp, việc tiếp xúc giữa mẹ ruột và cha mẹ nuôi phải chấm dứt ngay khi có quyết định chính thức về việc sắp xếp đứa trẻ về với gia đình cha mẹ nuôi.

Hình thức “mở” (open adoption)

Là hình thức cho nhận con nuôi trong đó cả hai phía cho và nhận con nuôi đều chia sẻ thông tin với nhau. Không một rào cản nào được thiết lập đối với sự tiếp xúc giữa hai phía đối tác, cả trước và sau khi chính thức có quyết định giao nhận đứa trẻ. Hình thức “mở” bắt đầu bằng hình thức “nửa đóng, nửa mở”, khi người mẹ ruột được xem xét danh sách các gia đình tiềm năng lúc đầu còn được giữ ẩn danh. Sau khi người mẹ lựa chọn gia đình nào sẽ nuôi trẻ, cả hai phía có quyền lựa chọn cách thức gặp gỡ để chia sẻ thông tin, cả sau khi quyết định giao nhận con nuôi đã được chính thức.

Nếu hình thức “mở” được chọn khi đứa trẻ còn chưa ra đời, cha mẹ nuôi cũng có hể được mời đến dự kiến lúc bà mẹ chuyển dạ và sinh đứa trẻ. Sau khi giao nhận, có thể vẫn duy trì một số tiếp xúc thường lệ giữa cha mẹ ruột và cha mẹ nuôi; mức độ tiếp xúc có thể khác nhau tùy sự lựa chọn của các gia đình. Trong một số trường hợp, việc tiếp xúc chỉ dừng lại ở mức độ gửi thư từ và hình ảnh của trẻ cho cha mẹ ruột mà không có sự tiếp xúc trực tiếp; trong trường hợp khác người mẹ ruột có thể trở thành một thành viên của gia đình mới và có thể được mời đến tham dự những cuộc lễ lạc hoặc họp mặt.

KHI ĐỨA CON NUÔI TÌM KIẾM CHA MẸ RUỘT

Trong lúc có những trẻ là con nuôi chẳng hề quan tâm đến việc tìm kiếm cha mẹ ruột của mình thì một số trẻ khác lại trở nên tò mò vì điều đó khi trẻ lớn lên. Trẻ có thể tìm kiếm những thông tin về cha mẹ ruột ở một mức độ nào đó để tự trả lời cho các câu hỏi của mình. Mức độ và động cơ của việc tìm kiếm thông tin cũng có rất nhiều kiểu. Trẻ có thể muốn biết cha mẹ ruột là ai và tại sao họ lại cho trẻ làm con nuôi. Trẻ cũng có thể muốn biết mình có những anh chị em khác hay không. Trẻ có thể cũng muốn có những cảm xúc gắn bó với cha mẹ ruột của mình. Hoặc trẻ đơn thuần chỉ muốn biết các thông tin về mặt sức khỏe mà chỉ cha mẹ ruột mới có thể trả lời; và lý do này lại có thể trở nên nổi trội vào thời điểm sau này khi trẻ đã kết hôn và dự tính có con.

Khi đứa con nuôi có ý định tìm kiếm thông tin về cha mẹ ruột, điều đó có thể khiến cha mẹ nuôi lo sợ rằng trẻ rời bỏ họ. Tuy nhiên, cha mẹ nuôi nên thấy rằng việc trẻ tìm kiếm thông tin về cha mẹ ruột không có nghĩa là trẻ không còn yêu thương họ hoặc không còn xem họ như gia đình thực sự của trẻ nữa. Thay vào đó, trẻ quyết định tìm kiếm thông tin bởi vì trẻ cần câu trả lời cho những điều mà cha mẹ nuôi không có khả năng giải đáp cho trẻ. Cha mẹ cần giúp trẻ bằng cách cung cấp cho trẻ tất cả những thông tin mà họ biết vào thời điểm giao nhận con nuôi, kể cả khi những thông tin này không đủ để thỏa mãn sự tò mò của trẻ.                             

Khả năng nhận biết thông tin về cha mẹ ruột có thể bị ảnh hưởng bởi hình thức cho nhận con nuôi đã được thực hiện, sự cởi mở chia sẻ thông tin từ cha mẹ nuôi với trẻ và các quy định khác bởi pháp luật. Trường hợp cho nhận con nuôi theo hình thức “đóng”, nếu đứa trẻ sau này cần biết các thông tin liên quan đến sức khỏe, bệnh tật của gia đình gốc, trẻ có thể yêu cầu tòa công khai các thông tin đã được niêm phong về gia đình gốc của mình.

Trường hợp trẻ hoàn tất được việc tìm kiếm và biết được về cha mẹ ruột của mình là ai, đang ở đâu, đứa con nuôi (và cả gia đình cha mẹ nuôi, nếu trẻ còn nhỏ) cần phải xem xét giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc tiếp xúc với cha mẹ ruột như làm thế nào để tiếp xúc, hình thức tiếp xúc như thế nào và nhịp độ tiếp xúc nhiều ít ra sao... Nếu khi trẻ tiếp xúc với cha mẹ ruột mà không phải do thỏa thuận trước, trẻ cần phải chuẩn bị trước khả năng rằng cha mẹ ruột có thể không muốn gặp trẻ, hoặc từ chối một cuộc gặp như thế. Khi điều đó xảy ra, nó có thể là câu trả lời về tình trạng tâm lý của cha mẹ ruột và có thể gây tổn thương cho đứa trẻ. Gia đình cha mẹ nuôi nên giúp trẻ đương đầu với tình trạng này bằng cách tiếp tục duy trì sự yêu thương và hỗ trợ trẻ như họ đã từng làm lâu nay, bằng cách lắng nghe những cảm xúc của trẻ và giúp trẻ xử lý cũng như cảm nhận về chúng một cách đầy đủ.

VAI TRÒ CỦA CHA MẸ RUỘT TRONG VIỆC CHO NHẬN CON NUÔI

Trong việc cho nhận con nuôi dưới hình thức “mở”, cha mẹ ruột trong một chừng mực nào đó vẫn còn là một phần trong cuộc sống của trẻ sau khi đã được nhận bởi gia đình cha mẹ nuôi. Ngay cả trong hình thức “đóng”, việc tiếp xúc sau này với cha mẹ ruột cũng là điều đáng bàn đến vì trẻ vẫn thường có động cơ tìm kiếm cha mẹ ruột của mình.                     

Trong quá trình cho con nuôi hình thức mở, cơ quan phụ trách vấn đề con nuôi sẽ làm việc với hai phía cho và nhận con để quy định việc tiếp xúc giữa trẻ và cha mẹ ruột sẽ diễn ra như thế nào. Những quy định cũng xem xét đến những thay đổi trong tương lai tùy theo những ước muốn sau này của trẻ cũng như tùy theo hậu quả của những tiếp xúc như thế.

CHO NHẬN CON NUÔI GIỮA CÁC QUỐC GIA

Việc cho nhận con nuôi giữa các nước khác nhau có thể gặp các vấn đề như hàng rào ngôn ngữ, khác biệt văn hóa, tuổi của trẻ và các vấn đề về sức khỏe.

Vấn đề về ngôn ngữ

Trẻ ở tuổi biết đi hoặc lớn hơn sẽ có thể có một ít khả năng phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ. Lý tưởng là nên có ít nhất một trong hai cha mẹ nuôi là người có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ để giao tiếp với trẻ. Ngôn ngữ cũng có thể phát triển chậm một chút tùy theo tuổi của trẻ lúc bắt đầu được nhận nuôi bởi cha mẹ nuôi người nước ngoài không sử dụng tiếng mẹ đẻ của trẻ. Trẻ còn nhỏ có thể lĩnh hội ngôn ngữ mới dễ dàng hơn và tự nhiên hơn so với trẻ lớn và người lớn. Mặc dù vậy, vấn đề về ngôn ngữ không hẳn là điều không thể vượt qua.

Một số vấn đề sức khỏe chuyên biệt

Các vấn đề sức khỏe của đứa trẻ cũng là việc mà cha mẹ nuôi rất quan tâm. Trẻ có thể bị suy dinh dưỡng hoặc có những tật bệnh mà không được sự lưu tâm đầy đủ, do vậy cha mẹ nuôi được khuyến cáo (nhất là ở các nước phát triển có nhiều cha mẹ muốn nhận con nuôi) phải khám sức khỏe cho trẻ sau khi nhận nuôi.

Tuổi của đứa trẻ

Vì nhiều lý do khác nhau, trẻ được cho nhận con nuôi xuyên quốc gia thường có thể không được ghi nhận chính xác lứa tuổi của mình. Trong trường hợp không biết rõ ngày sinh, cơ quan con nuôi phải cố gắng thực hiện việc đánh giá gần đúng với tuổi thực của trẻ và cần phải cho lại một ngày sinh chính thức để cha mẹ nuôi có thể kỷ niệm sinh nhật cho trẻ sau này.

Các khác biệt văn hóa

Nếu trẻ đã lớn khi được nhận nuôi, những hành vi và niềm tin trong văn hóa cũ của trẻ có thể phần nào can dự vào khả năng thích nghi của trẻ khi sống với gia đình cha mẹ nuôi. Trẻ cũng cần được hướng dẫn lại một số niềm tin và tập quán, chẳng hạn như một số trẻ được giáo dục trong nền văn hóa của mình rằng sẽ không tốt nếu nói chuyện mà nhìn vào mắt người khác, trong khi đó điều này lại được tin ngược lại khi ở Hoa Kỳ: nói chuyện mà không nhìn mắt được xem là thiếu tôn trọng người đối thoại. Cha mẹ nuôi cũng cần làm cho giai đoạn chuyển tiếp của trẻ trở nên dễ dàng hơn bằng cách bản thân mình phải học hỏi nhiều về nền văn hóa gốc của trẻ và công khai chỉ cho trẻ biết những khác biệt trong nền văn hóa mới mà trẻ cần biết.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ SỨC KHỎE KHÔNG ĐƯỢC BIẾT HOẶC KHÔNG ĐƯỢC NGỜ TỚI

Một vấn đề thường khiến cha mẹ nuôi lo sợ là khi họ biết được về những vấn đề sức khỏe của đứa trẻ mà họ đã không được biết vào thời điểm ban đầu nhận nuôi trẻ. Mặc dù họ đã có nhiều cố gắng lúc ban đầu nhưng vấn đề này đôi khi vẫn không thể tránh được hoàn toàn. Nhiều vấn đề sức khỏe có tính gia đình đôi khi chỉ xuất hiện khi trẻ đã lớn.                       

Hai loại rối nhiễu thường hay gặp ở những trẻ mà lúc nhỏ đã từng bị ngược đãi hoặc bỏ bê, đã được trung chuyển qua nhiều cơ sở nuôi trẻ hoặc trại mồ côi, đó là “rối loạn gắn bó có tính phản ứng” (RAD: reactive attachment disorder) và “rối loạn ngang bướng chống đối” (ODD: oppositional defiant disorder).

Trong trường hợp RAD, đứa trẻ có vấn đề về khả năng thiết lập sự gắn bó chặt chẽ và đáng tin cậy giữa trẻ vói người chăm sóc, và do vậy, trẻ sẽ khó khăn trong việc phát triển sự gắn bó với cha mẹ nuôi. RAD sẽ gây ra nhiều vấn đề khó khăn trong việc tạo lập và duy trì quan hệ của trẻ với người khác, cũng như trong việc học tập ngôn ngữ và các hành vi thích nghi xã hội của trẻ. Chậm nói hoặc một số tình trạng chậm phát triển có thể là hậu quả của việc này. Một số trẻ RAD có thể biểu lộ sự hụt hẫng của mình qua hành vi bộc phát đối với con người hoặc trên các thú vật nuôi. RAD nói chung không thể được “chữa trị”, tuy nhiên một khi tình trạng này được phát hiện sớm, gia đình cha mẹ nuôi và trẻ có thể phải học tập những cách thức quản lý cảm xúc và hành vi của mình để có thể tiếp tục giữ đứa trẻ đi theo con đường phát triển đúng đắn nhất.

ODD có liên quan đến những phản ứng như cãi lời người lớn, chống lại luật lệ, có những hành vi thù địch và chống đối lại với người chăm sóc trẻ. Trẻ còn nhỏ có thể nhận được những lợi ích thông qua liệu pháp hành vi; đồng thời phụ huynh cũng có thể được hướng dẫn cách thiết lập những kỷ luật đúng đắn và hiệu quả. Vị thành niên có khi kém đáp ứng với trị liệu cũng như khả năng xử lý của phụ huynh; một số vị thành niên được chẩn đoán là ODD vẫn tiếp tục có tình trạng này cho đến lớn và chuyển thành điều thường được biết với tên gọi là “rối loạn nhân cách chống đối xã hội” (antisocial personality disorder).

Ngoài hai tình trạng RAD và ODD nêu trên, những trẻ đã có thời gian sống trong các cơ sở bảo trợ lưu trú cũng có thể có những vấn đề khó khăn về hành vi và cảm xúc. Khi không nhận được sự chăm sóc một cách đầy đủ, những trẻ này sẽ gặp khó khăn không thể tin tưởng và trông cậy vào người lớn. Khi được nhận nuôi, trẻ có thể trở nên khó quan hệ với những trẻ khác trong gia đình cha mẹ nuôi và những bạn học trong trường lớp. Trẻ có thể cất giấu thức ăn hoặc các vật dụng khác. Nếu gia đình cha mẹ nuôi phát hiện thấy những biểu hiện này, điều cần làm là phải liên hệ với những chuyên viên tham vấn và gia đình cha mẹ nuôi có cơ hội để tái bảo đảm với trẻ rằng tình thế sống đã thay đổi và giờ đây trẻ đang sống trong gia đình với cha mẹ nuôi của mình. Những hành vi tự bảo vệ như thế nay không còn hữu ích nữa và trẻ có thể từ bỏ chúng một cách an toàn.

HỦY BỎ VIỆC CHO NHẬN CON NUÔI

Một điều cũng thường gây lo ngại cho cha mẹ nuôi là khi tiến trình cho nhận đang diễn ra thì cha mẹ ruột có thể thay đổi ý kiến và việc cho nhận con nuôi bị hủy bỏ. Việc cho nhận con nuôi là một tiến trình chỉ kết thúc sau khi đã có quyết định của tòa án cho nên đây cũng là khoảng thời gian đáng sợ vì cha mẹ nuôi có thể lo sợ rằng một điều gì đó không hay xảy ra khiến cho ước mơ nhận con nuôi của họ bị đổ vỡ nửa chừng. Không có gì bảo đảm rằng mọi việc sẽ diễn tiến hoàn hảo. Mặc dù cố gắng hết sức, cha mẹ nuôi vẫn cần chuẩn bị cho tình huống cha mẹ ruột có thể thay đổi ý kiến, đặc biệt là khi đứa trẻ được sinh ra mà trước đó đã có thỏa thuận cho nhận con nuôi.

NHỮNG NỖI SỢ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC CHO NHẬN CON NUÔI

Nhận con nuôi không phải là một việc có thể được thực hiện một cách nhẹ nhàng. Nhìn từ góc độ cha mẹ nuôi, việc nhận đứa trẻ có liên quan đến trách nhiệm đối với một đời người. Đây là một sự ủy thác hao tổn nhiều thời gian, công sức, tiền bạc và sự lưu tâm. Thậm chí chuyện có thể trở nên xấu đi khi họ sống với đứa trẻ. Những người chuẩn bị làm cha mẹ nuôi vẫn thường trải qua những nỗi lo sợ mà họ cần phải giải tỏa trước khi quyết định bước vào tiến trình nhận con nuôi. Mặc dù mỗi trường hợp nhận con nuôi có những tính chất riêng tư độc đáo, ta vẫn có thể tóm tắt một số chủ đề chung sau đây:

Trước tiên là vấn đề về sự gắn bó với đứa trẻ. Đối với trẻ, khả năng gắn bó sẽ xuất hiện khi trẻ có được lòng tin với người chăm sóc và được bảo đảm rằng những nhu cầu của trẻ sẽ được thỏa mãn một cách hợp lý. Đối với cha mẹ nuôi, sự gắn bó có nghĩa là khi họ nhận thấy trẻ phản ứng một cách đặc hiệu khi có sự hiện diện của họ và trở nên bình an khi họ thỏa mãn những nhu cầu của trẻ. Nhiều cha mẹ nuôi e ngại rằng sự gắn bó sẽ gặp khó khăn hoặc họ sẽ không có được sự gắn bó của trẻ chỉ bởi vì họ không phải là cha mẹ ruột hoặc họ đã tiếp nhận trẻ sau khi giai đoạn phát triển ban đầu của trẻ đã trôi qua. Nỗi sợ này là rất chính đáng, tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng những cha mẹ ruột cũng có thể trải nghiệm những nỗi sợ này ngay sau khi mới sinh con, đặc biệt là những người mẹ bị mắc chứng trầm cảm sau sinh hoặc những bậc phụ huynh phải đi xa một thời gian sau khi sinh. Dù trong trường hợp nào nêu trên, vấn đề cũng có thể được giải quyết bằng cách dành thời gian tương tác với trẻ, bằng sự kiên trì và thể hiện tình yêu thương, chăm sóc chân thành để thông qua đó có thể thỏa mãn những nhu cầu của trẻ.

Điều thứ hai là cha mẹ nuôi thường lo sợ về những vấn đề sức khỏe có thể có của đứa trẻ. Đặc biệt khi ít có hoặc không có sẵn thông tin gì liên quan đến sức khỏe và bệnh tật của cha mẹ ruột của trẻ. Điều này có nghĩa là một số vấn đề sức khỏe, bệnh lý di truyền hoặc vấn đề tâm lý có thể xuất hiện khi trẻ lớn lên sau này và khi chúng xuất hiện, gia đình hẳn sẽ đối đầu với những thách thức lớn lao.
Điều thứ ba là cha mẹ nuôi lo sợ rằng đứa trẻ về sau sẽ có thể có những vấn đề khó khăn về hành vi. Họ có thể tự hỏi rằng liệu mình đã sẵn sàng chuẩn bị đối đầu những thách thức như thế chưa. Đặc biệt khi đứa trẻ được nhận nuôi đã từng trải qua thời gian sống trong những cơ sở nuôi dưỡng lưu trú và đã có cuộc sống không được dễ dàng. Những trẻ như thế thường bộc lộ qua hành động (act out), kiểm tra các giới hạn cũng như những luật lệ cho đến khi trẻ tin rằng cha mẹ nuôi sẽ không đổi ý và sẽ không gửi trẻ đi nơi khác. Đây là một việc khó khăn cũng rất cần được xử lý.

Trong hai trường hợp lo sợ về sức khỏe lẫn hành vi khó khăn của trẻ, những nỗi âu lo của cha mẹ nuôi bao gồm việc e ngại họ không có khả năng xử lý được những thách thức này và họ cũng sợ trẻ không thương yêu mình vì sự “bất toàn” của mình. Cha mẹ nuôi cần trao đổi với những người khác đã trải qua việc nhận con nuôi để có thể hình dung trước về những khó khăn mà họ có thể gặp phải với đứa trẻ, hoặc tham dự vào các lớp huấn luyện để hiểu hơn về nhu cầu của những trẻ em đặc biệt này. Bằng cách tự học hỏi, cha mẹ nuôi có thể trở nên tự tin hơn về khả năng của mình trong việc xử lý các thách thức này khi chúng nảy sinh.


Sau cùng, một nỗi sợ cũng thường gặp ở những người muốn nhận con nuôi đó là sợ phản ứng tiêu cực của người thân và bạn bè khi biết ý định của họ. Người thân và bạn bè có thể bày tỏ những lo ngại của họ liên quan đến nguồn gốc chủng tộc của đứa trẻ (trường hợp nhận con nuôi ở nước ngoài), về khả năng hội nhập của trẻ vào đại gia đình của họ và về những gánh nặng tài chính cũng như tình cảm mà cha mẹ nuôi phải chịu đựng khi nuôi trẻ. Tùy theo mức độ phán xét sự việc, những người thân trong gia đình có thể biểu lộ những thái độ thù địch nhiều cách khác nhau. Cha mẹ nuôi cũng lo sợ những thành viên khác trong gia đình sẽ lơ là hoặc đối xử thiếu tự nhiên với trẻ. Để giải quyết điều này, rất cần dành nhiều thời gian để lắng nghe, đối thoại và chia sẻ ý kiến với nhau trước khi nhận con nuôi. Dù cho việc nhận con nuôi là một quyết định riêng tư của cha mẹ nuôi, nhưng nó cũng có ảnh hưởng trên cảm xúc và thái độ của những người khác mà điều này cũng cần phải được xem xét.