Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2012

LÝ THUYẾT RIÊNG CỦA BẢN THÂN VỀ HÀNH VI CON NGƯỜI

BS NguyỄn Minh TiẾn

Việc hiểu biết bản chất của các mối quan hệ hỗ trợ, vai trò và những thuộc tính đặc trưng của một người hỗ trợ hiệu quả, cùng với việc hiểu biết và vận dụng những kỹ năng giao tiếp tốt sẽ có vai trò quan trọng trong việc thiết lập những mối quan hệ hỗ trợ. Trong khi đó, để có thể áp dụng tốt các chiến lược hỗ trợ (giai đọan II của tiến trình hỗ trợ), chúng ta cần nắm vững những học thuyết cơ bản về sự hỗ trợ. Tuy nhiên, trước khi đi vào tìm hiểu những học thuyết này, bản thân mỗi người hỗ trợ cũng cần xem xét, khám phá các giá trị, các nhu cầu mà từ đó góp phần tạo nên cái gọi là “học thuyết cá nhân” của bản thân từng người hỗ trợ. Việc hiểu “học thuyết riêng” về hành vi con người của bản thân mỗi người chúng ta là rất quan trọng, bởi vì chính nó sẽ ảnh hưởng lên việc bạn hiểu như thế nào về những học thuyết hỗ trợ được công bố chính thức về mặt khoa học, ảnh hưởng lên cách mà bạn có thể chấp nhận chúng hoặc phản bác chúng.

Mỗi người trong chúng ta đều có sẵn những quan điểm riêng, những ý kiến riêng có thể tạo nên một lý thuyết về hành vi của con người. Những niềm tin và quan điểm ấy vẫn mỗi ngày vận hành cuộc sống chúng ta. Lý thuyết riêng của mỗi người vẫn thực sự tồn tại và ảnh hưởng lên những hành động của chúng ta. Bất kể chúng ta có tự mình nhận ra sự hiện diện của chúng hay không, hoặc chúng ta có thể diễn đạt lại các lý thuyết ấy hay không, thì chúng vẫn có những ảnh hưởng lên trên hành động của chúng ta.

Lý thuyết riêng của mỗi người lại chịu ảnh hưởng bởi những nền tảng đạo đức, kinh tế xã hội, văn hóa và gia đình mà chúng ta đã hấp thụ từ trước đó, bởi những xu hướng giới, các yếu tố sinh học, những trải nghiệm trong quá khứ, sự tiếp xúc với các trường phái, xu hướng suy nghĩ khác nhau trong cuộc sống, cũng như từ các cơ hội mà chúng ta gặp phải trong đời và từ những con người mà chúng ta cùng sống, học tập và làm việc... Nhân cách và tính tình của chúng ta cũng có ảnh hưởng lên trên sự hình thành cái lý thuyết về nhân sinh riêng của chúng ta, cũng như sẽ ảnh hưởng lên trên khả năng tự nhận biết về bản thân chúng ta. Mỗi người trong chúng ta sẽ có thể nhận biết được lý thuyết về sự hỗ trợ của riêng mình khi chúng ta lưu tâm suy nghĩ về nó và khi chúng ta thăm dò các tình huống hỗ trợ xảy ra trong thực tế.

Bất kể lý thuyết riêng của chúng ta là như thế nào, chúng ta đều cần phải hiểu về nội dung của nó, bởi vì nó sẽ có ảnh hưởng lên trên những hành động và những phản ứng của chúng ta đối với những người mà chúng ta đang giúp đỡ. Cho đến khi chúng ta thừa nhận cái cơ sở lý thuyết của riêng mình là như thế nào, chúng ta mới có thể “giúp đỡ” người khác nhiều hơn, áp dụng các lý thuyết của bản thân mình tốt hơn để đáp ứng những nhu cầu của người khác.
Việc hiểu biết về hành vi của con người là điều rất quan trọng đối với tất cả những ai làm công việc liên quan đến con người. Thông qua học tập từ lý thuyết, từ kinh nghiệm làm việc, hoặc từ cả hai loại học tập ấy, người hỗ trợ (helpers) phải thường xuyên “đánh vật” với các đề tài như: nhân cách được hình thành và phát triển như thế nào, tại sao con người lại có những cách ứng xử như thế, đâu là động cơ thúc đẩy con người, làm thế nào để những động cơ ấy vận hành, con người suy nghĩ như thế nào, học tập như thế nào, tập thể có ảnh hưởng như thế nào trên hành vi của các cá nhân và làm thế nào để thay đổi hành vi của con người...

Chúng ta có tất cả những suy nghĩ về những chủ đề này, dẫu rằng trong cuộc sống thường ngày chúng ta không thể (hoặc ít khi) giải bày những suy nghĩ ấy ra dưới dạng những học thuyết. Tuy nhiên, những niềm tin của chúng ta về các mối quan hệ giữa người và người vẫn ảnh hưởng lên trên thái độ và hành vi của chúng ta khi quan hệ với những người khác. Những người làm công tác hỗ trợ nếu nhận biết được những niềm tin của chính họ và có ý thức trăn trở với những câu hỏi liên quan đến các chủ đề nêu trên thì sẽ có thể nhận biết được những ảnh hưởng từ nhân sinh quan của họ lên nhận thức, thái độ và hành vi của họ đối với những người mà họ giúp đỡ. Ví dụ, một người hỗ trợ mà bản thân tin rằng bằng cách thay đổi hành vi có thể dẫn đến thay đổi thái độ và cảm xúc, thì người ấy dễ có khuynh hướng lựa chọn các chiến lược hỗ trợ theo định hướng hành động (action-oriented) tập trung vào các thay đổi về hành vi, trong khi một người hỗ trợ tin rằng hành vi chỉ thay đổi khi con người phát triển được khả năng tự nhận biết về bản thân sẽ dễ chấp nhận việc áp dụng các kỹ thuật đối thoại bằng lời để phát triển khả năng “thấu hiểu” hoặc “nội thị” (insight). Tương tự, việc hiểu biết lý thuyết cơ bản về sự học tập cũng sẽ cho phép người hỗ trợ nhận biết và sử dụng một cách có ý thức những tiềm năng của chính bản thân mình như những khuôn mẫu (models) để vận dụng vào trong các mối quan hệ hỗ trợ.

Vì thế, sự hiểu biết các lý thuyết và vận dụng sự hiểu biết ấy là có tính thiết yếu cho việc chúng ta có thực hiện được sự hỗ trợ hiệu quả trong thực hành lâm sàng hay không. Tuy nhiên, mỗi người hỗ trợ nên xây dựng cho mình một phong cách hỗ trợ riêng sao cho phù hợp với lý thuyết riêng của mình và vẫn có thể hiệu quả theo cách thức riêng mà mình đã chọn.

Không may thay, thường thì vẫn có một chút gì đó không được hài hòa lắm giữa những gì mà một người hỗ trợ tin tưởng với những gì mà người ấy thực sự làm. Nếu nhận thức được rõ cái lý thuyết nhân sinh riêng của bản thân, chúng ta sẽ có thể thấy rõ cách thức mà chúng ta đang vận dụng những lý thuyết chính thức vào trong sự thực hành hỗ trợ mà chúng ta đang thực hiện. Để bắt đầu tìm hiểu những về những giả định trong lý thuyết riêng của mình, bạn hãy tự đặt ra những trả lời cho các câu hỏi sau đây: 

1. Con người là gì? Họ tốt hay xấu? Họ sinh ra vốn đã tốt hay xấu chưa? Họ có thể tự kiểm soát bản thân hay chịu sự kiểm soát bởi một cái gì khác từ bên ngoài? Điều gì là động cơ thúc đẩy họ?

2. Bạn giải thích như thế nào về nam tính và nữ tính? Những khác biệt giữa nam và nữ có phải là do sinh học? Do các yếu tố xã hội? Do sự khác biệt về chủng tộc, đạo đức hay là do học tập mà có?

3. Con người học tập như thế nào? Có những phương thức học tập khác nhau hay không?

4. Nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được định hình sẵn hay là do học tập? Các loại nhân cách khác nhau có thể phân biệt được dựa trên những biểu lộ bằng hành vi không?

5. Con người có thể thay đổi được không? Họ thay đổi như thế nào? Có tác nhân gì bên ngoài khiến họ thay đổi hay là sự thay đổi đã xuất phát từ bên trong con người?

6. Thế nào là sự lệch lạc về mặt xã hội? Ai là người quyết định một việc gì đó là lệch lạc hay không lệch lạc? Việc gì có thể làm hoặc nên làm đối với các lệch lạc ấy? Những hành vi nào (của bản thân và của người khác) mà bạn thấy có thể chấp nhận được và không thể chấp nhận được? Những hành ấy có lệch lạc không?

Hãy cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng chính những ngôn từ của bạn, dựa trên khung tham chiếu của chính bạn. Bạn có thể ngạc nhiên nhận ra rằng lâu nay bạn đã có sẵn nhiều giải đáp cho các câu hỏi này rồi! Hãy so sánh chúng với sự trả lời của những người khác. Những trả lời của bạn không đúng mà cũng không sai, thậm chí chúng vẫn còn có thể thay đổi về sau nếu bạn vẫn tiếp tục học hỏi, tiếp tục nhận biết thêm những quan điểm và những cảm xúc của riêng bạn.
Bạn cởi mở như thế nào đối với những quan điểm khác biệt với bạn? Sự cởi mở có thể ảnh hưởng lên tính uyển chuyển và khả năng thích ứng của bạn, từ đó ảnh hưởng lên khả năng tiếp xúc làm việc của bạn với nhiều loại người khác nhau và khả năng cảm thấy thoải mái trong nhiều môi trường sống và làm việc khác nhau.

 Sau khi khảo sát cái lý thuyết nhân sinh của bản thân, bạn có thể bắt đầu xem xét tổng quan các học thuyết chính yếu về sự hỗ trợ. Bạn có thể nhận thấy thấp thoáng phần nào quan điểm nhân sinh của bạn trong những học thuyết ấy; bạn cũng sẽ nhận thấy có những phần lý thuyết bạn chấp nhận được và cũng có những phần lý thuyết bạn sẽ phản bác lại, không chấp nhận. Tuy nhiên, ý kiến riêng của bạn hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian và theo tiến trình học tập của chính bạn.
Nguồn: Effective Helping - Barbara Okun

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

MỖI CÕI LÒNG, MỘT CẢNH ĐỜI

Đây là bài viết mà tôi đã thực hiện như bài thu hoạch cuối khóa học Tâm Lý Trị Liệu Gia Đình và Can Thiệp Hệ Thống. Bài đã viết bằng tiếng Anh và nay xin đăng tải bản tiếng Việt để bạn đọc tham khảo dưới một tựa đề mới.


1.

Tôi không thể xác định rõ vào lúc nào mà tâm lý trị liệu đã trở thành một chuyên ngành rất lý thú đối với tôi, dù trước đó tôi đã tốt nghiệp đại học y khoa và đã có ba năm làm việc tại một bệnh viện chuyên khoa lao và bệnh phổi. Tôi nhớ đã có một bước ngoặc trong đời mình vào năm 1992, năm năm sau khi ra trường, khi tôi bắt đầu vào làm việc cho một trường dạy trẻ khiếm thính và làm việc ở đó trong hai năm. Từ lúc ấy trở đi, tôi đã tiếp nhận rất nhiều những thông tin và kiến thức từ những ngành khoa học khác không phải y khoa và những kiến thức ấy dần dần choáng lấy suy nghĩ của tôi những khi tôi làm việc với những đối tượng của mình, nhất là với những trẻ em. Tôi nhận ra đã có những thay đổi trong nghề nghiệp của mình. Mặc dù tôi vẫn làm việc như một thầy thuốc, nhưng không phải với những người bệnh, không phải trong một bệnh viện và cũng không phải khoác chiếc áo choàng trắng mang tính biểu tượng của ngành nghề mình. Tôi đã học hỏi được nhiều điều từ những trẻ em bị điếc, từ cha mẹ chúng và từ những nhân viên trong ngôi trường ấy. Lúc khởi đầu công việc, những đứa trẻ khiếm thính ấy đã làm cho các kiến thức mà tôi học được từ trường y trở nên vô dụng và tất cả những gì đầu tiên tôi có thể làm được là sửa chữa những chiếc dây bị hư của những chiếc máy trợ thính của các em! Tuy nhiên, với thời gian, tôi nhận ra một cách rõ ràng rằng những đứa trẻ kia không cần tôi “chữa lành” bệnh cho chúng, điều mà các em cần là những cơ hội giáo dục và học tập tốt (chứ không phải là để “phục hồi” những chức năng mà vốn dĩ các em đã không có). Mặc dù có những trở ngại trong việc học tập, những trẻ điếc ấy đã thể hiện như những người “hạnh-phúc-trong-sự-kém-may-mắn” và tôi thực sự không biết được điều gì đã khiến các em có nhiều nghị lực như thế!

Trong thời gian này, tôi bắt đầu được nghe nói về một tổ chức có tên là Trung tâm NT (tức Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Trẻ em), một tổ chức ngoài công lập do BS Nguyễn Khắc Viện thành lập với mục đích nghiên cứu về tâm lý trẻ em, một tổ chức mà về sau đã có ảnh hưởng lớn lao trên định hướng nghề nghiệp của bản thân tôi. NT đã xây dựng nên nhiều phòng khám tình nguyện trên cả nước, huấn luyện nhân viên, tổ chức hội thảo, xuất bản sách vở về tâm lý trẻ em và bắt đầu áp dụng tâm lý trị liệu cho những trẻ em có các vấn đề về tâm lý. Nhưng phải mất khoảng 5, 6 năm để NT phát triển những công việc này. Về phần mình vào lúc ấy, những mối quan tâm của tôi về ngành tâm lý bắt nguồn từ thực tế làm việc với trẻ em khiếm thính, từ những bài báo cáo trong các hội thảo và từ các bài giảng trong những lớp huấn luyện về trẻ khuyết tật do các chuyên gia giáo dục Úc và Hà Lan cung cấp. Mãi cho đến năm 1997, khi tôi trở thành thành viên của NT2 (chi nhánh của Trung tâm NT tại Tp.HCM), tôi mới thực sự có cơ hội học tập và thực hành tâm lý lâm sàng, một chuyên ngành mà tôi đã không được học từ trường đại học y khoa.

Chính tại NT2 mà tôi đã có những bước đi đầu tiên trong thực hành tâm lý trị liệu, một việc mà ban đầu không có vẻ gì là “y khoa” cả! Những nhà tâm lý trị liệu Pháp (phần lớn trong số những ngưòi tôi đã gặp là những nhà phân tâm) đã có ảnh hưởng lớn trên quan điểm và học thuyết của NT. May thay, BS Nguyễn Khắc Viện, người sáng lập NT, lúc sinh thời vốn là người có quan điểm chiết trung. Trong các tác phẩm của mình như Tâm Lý Lâm Sàng Trẻ Em Việt NamTâm Lý Gia Đình, ông khuyến khích các nhà tâm lý Việt Nam nên có thái độ linh hoạt và tổng hợp khi vận dụng các học thuyết và phương thức khác nhau vào thực tiễn lâm sàng của mình. Ông có biệt tài tổng hợp các học thuyết của phương Tây với minh triết phương Đông và diễn dịch các thuật ngữ phương Tây kết hợp với các ngôn từ Hán Việt sẵn có. Ngoài ra, ông có lẽ là người Việt Nam đầu tiên nêu lên sự hữu ích của các học thuyết trị liệu hệ thống, giới thiệu chúng trong các tác phẩm của mình và phát hiện ra những tương đồng giữa lý thuyết hệ thống với các quan niệm truyền thống về gia đình của người Việt Nam. Ông là một trong số những người tiên phong trong việc phát triển lĩnh vực tâm lý lâm sàng tại Việt Nam sau chiến tranh. Cùng thời gian ấy, tôi cũng rất phấn khởi khi vốn tiếng Anh của mình ngày càng cải thiện và điều này đã giúp tôi lĩnh hội được những lý thuyết rất khó nuốt trôi từ các sách vở, tài liệu chuyên ngành bằng tiếng Anh mà tôi có được.

Ca lâm sàng đầu tiên mà tôi thực hiện là trường hợp một bé trai tám tuổi được ông ngoại dẫn đến phòng khám NT2 vào năm 1998. Trong vài tháng trước đó, bé trai này vướng phải một số vấn đề kỷ luật ở trường và có biểu hiện hiếu động hơn lúc trước. Trẻ có quá trình phát triển bình thường và có kết quả học tập tốt trong hai năm đầu ở trường tiểu học. Khi hỏi chuyện về quá khứ, tôi được biết rằng người mẹ là con duy nhất trong gia đình bên ngoại, còn người bố từ lâu đã rời bỏ quê nhà vào lập nghiệp và sống một mình ở Tp.HCM trước khi cưới mẹ của đứa trẻ. Ông ngoại, vì ước mong có được một đứa con trai, đã yêu cầu người mẹ cho ông nhận đứa cháu trai đầu tiên này làm con nuôi. Trẻ ở với ông bà ngoại và sau đó được yêu cầu gọi người ông bằng “ba” trong khi người bố ruột thường đi xa nhà để làm việc. Vào lúc tôi gặp trẻ, mẹ đã sanh thêm đứa con trai thứ hai, lúc ấy khoảng 6 tháng tuổi. Một lần nữa, người mẹ lại đưa hai đứa con trai về sống ở nhà ông bà ngoại để có người phụ giúp công việc chăm sóc cháu bé, để lại người bố sống một mình trong ngôi nhà riêng của hai vợ chồng. Trong buổi tiếp xúc, tôi nhận thấy đứa bé rất dễ gần, thông minh và có vẻ được giáo dục tốt. Tôi đã trò chuyện cùng trẻ, lúc thì bằng lời nói trao đổi với nhau, lúc thì dùng trò chơi hoặc bằng vẽ tranh, và cậu bé đã “kể” cho tôi – thông qua một trong số những bức tranh mà trẻ vẽ - về một người đàn ông mà cậu gọi là “bố” đang đứng dưới một tàn cây bên ngoài một ngôi nhà mà cửa đang đóng kín. Điểm quan trọng trong bức tranh đó là cậu đã không vẽ bất cứ chi tiết nào trên gương mặt của người đàn ông kia – không mắt, không mũi, không miệng, không có gì cả... – điều này khác hẳn những bức vẽ hình người của những đứa trẻ bình thường cùng tuổi với cậu. Giờ đây khi xem xét lại, tôi nhận thấy rằng người “đàn ông không có gương mặt” trong bức tranh của cậu bé có thể mang một ý nghĩa ẩn dụ cho sự nhầm lẫn của cậu bé về vai trò của hai “người cha” trong đời của mình. Nhưng vào thời gian ấy, những gì tôi muốn thực hiện chỉ đơn giản là nhằm chia sẻ những ý kiến của tôi với hai người đàn ông quan trọng này về những khó khăn mà cậu bé đang gặp phải và về những gì họ có thể làm để giúp đỡ cậu. Phiên trị liệu kế tiếp được diễn ra với sự hiện diện của ông ngoại và người bố của cậu bé (người mẹ vắng mặt vì phải ở nhà chăm con). Chủ đề tế nhị liên quan đến vai trò của người cha đã được đề cập đến và được thảo luận với mục đích nhắm đến việc củng cố trách nhiệm của người bố trong việc chăm sóc đứa con trai của ông. Rất may, trong buổi gặp ấy tôi đã nhận được sự hợp tác tốt từ cả hai người đàn ông này, mặc dù có thoáng một chút vẻ áy náy xuất hiện trên gương mặt của ông ngoại như thể ông đang suy nghĩ về “lỗi lầm” của mình (đây cũng là điều duy nhất xảy ra mà tôi không ngờ tới trước). Dẫu sao, tôi cũng đã trải nghiệm được ca lâm sàng đầu tiên này với những cảm xúc tích cực. Tôi thấy mình có can đảm hơn và tự tin hơn để có thể đi sâu hơn vào lĩnh vực đặc biệt này. Về sau, khi quá trình thực hành của tôi được tiến triển, tôi cũng nhận ra được rằng thật là không cần thiết, thậm chí có khi không có lợi, nếu một nhà trị liệu tâm lý cố gắng chứng minh nguyên nhân của một vấn đề giống như cách mà các bác sĩ tìm kiếm nguyên nhân của một căn bệnh.

Vào năm 1999, tôi có cơ hội được trình bày một ca lâm sàng khác trong một cuộc hội thảo nhỏ và dưới sự giám sát của Giáo sư người Pháp, Claude Pigott, một bác sĩ tâm thần đồng thời là một nhà phân tâm chuyên về trị liệu gia đình. Đó là trường hợp một bé trai năm tuổi bị tự kỷ có bố mẹ đang gặp phải những vấn đề khó khăn trong hôn nhân. Đó là một kỷ niệm khó quên khi lần đầu tiên tôi sử dụng genogram (biểu đồ gia tộc) làm công cụ để trình bày về gia đình của đứa trẻ (Cũng phải nhắc đến BS. Nguyễn Văn Khuê, người phụ trách đầu tiên của NT2, nhờ ông mà tôi có được bản photo của quyển sách Changing Family Life Cycle – A Framework for Family Therapy của hai tác giả Monica McGoldrick và Betty Carter, mà từ đó tôi đã rút ra được những hiểu biết cần thiết về cách sử dụng genogram). Với sự giám sát của GS. Pigott, lần đầu tiên tôi nhận được những lời góp ý như sau: “sự thấu cảm với nỗi khổ của một người vợ có thể vẫn chưa đủ, bởi vì người chồng (vắng mặt trong các phiên trị liệu) có thể cũng gặp nhiều khó khăn và đau buồn tương tự”. Về sau tôi được biết đó chính là thái độ của một nhà trị liệu gọi là “sự thiên vị đa hướng”, một khái niệm quan trọng mà tác giả Nagy đã nói đến trong lý thuyết của ông.

Đầu năm 2001, cơ sở NT2 ngưng hoạt động và tôi phải thành lập riêng cơ sở khác để tiếp tục làm việc. Tôi trở lại trường đại học và tham dự khóa đào tạo sau đại học về chuyên khoa tâm thần. Khi hoàn tất khóa học vào năm 2003, có hai sự việc xảy đến làm cho tôi có khả năng tiếp tục đi sâu hơn vào lĩnh vực sức khỏe tâm thần. Việc thứ nhất là tôi được tuyển vào làm việc bán thời gian trong một trung tâm cai nghiện ma túy tư nhân với vai trò như một tham vấn viên cho người nghiện, ngoài công việc chuyên về trị liệu tâm lý trẻ em mà tôi vẫn tiếp tục thực hiện sau khi NT2 ngưng hoạt động mãi cho tới nay. Việc thứ hai, đó là tôi đã tham gia khóa đào tạo về tâm lý trị liệu hệ thống với sự khuyến khích của BS. Lâm Xuân Điền, lúc đó là giám đốc Bệnh viện Tâm Thần Tp.HCM.

Thực tế là những khóa huấn luyện như thế luôn rất cần thiết cho sự phát triển của ngành tâm lý trị liệu cũng như sự phát triển của các dịch vụ sức khỏe tâm thần nói chung tại Việt Nam. Những gì mà tôi tiếp thu được từ khóa học này, nhờ vào những giảng viên rất nhiệt tình phụ trách giảng dạy, vẫn sẽ tiếp tục theo tôi trong công việc thực hành của mình. Từ góc độ một người học và một người thực hành, tôi nghĩ rằng chỉ bằng cách học tốt mới có thể thực hành giỏi, và ngược lại, có thực hành khổ luyện thì sự học mới có thể được nâng cao tốt hơn. Trong gần năm năm qua, khóa học này đã tạo nhiều cơ hội để tôi có thể kiểm nghiệm lại các giả thuyết và xem xét những trải nghiệm mà tôi có được từ công việc của mình, và những điều tiếp thu từ khóa học đã trở thành một thứ cẩm nang hướng dẫn cho tôi khi tác nghiệp.

2.

Phần tiếp theo sau đây tôi sẽ dành cho việc trình bày trường hợp lâm sàng của một người nghiện mà tôi đã làm việc với tư cách một chuyên viên tham vấn tâm lý trong trung tâm cai nghiện nơi tôi đã công tác.

Tôi gặp cô ấy lần đầu tiên vào một ngày trong tháng 11-2004. Thanh (tên thật của cô đã được thay đổi) 25 tuổi khi cô nhập viện vào trung tâm lần này. Tôi không biết được từ trước nay cô đã có bao nhiêu lần vào viện để điều trị cắt cơn, nhưng cô bảo với tôi rằng đây là lần thứ ba cô vào điều trị trong một trung tâm ở Việt Nam và là lần đầu tiên trong trung tâm của chúng tôi. Những lần cắt cơn trước đây đều được thực hiện ở nước ngoài, bởi vì Thanh đã rời khỏi Việt Nam khi cô mới chỉ một tuổi và đã bắt đầu nghiện heroin ở tuổi 15. Cho đến lúc gặp tôi, cô đã ở trong trung tâm được khoảng 3 tháng.  Trước buổi gặp ấy, tôi được nghe kể về Thanh như là một học viên có tính tự cao, hay đòi hỏi và rất khó bảo. Vì thế, nhiều nhân viên trong trung tâm như các bảo vệ, bác sĩ, điều dưỡng, giáo dục viên, giáo viên dạy nghề... thường khó có thể có được “sự hợp tác” của cô, ngay cả các học viên khác trong trung tâm cũng khó làm thân được với cô. Dường như cô chỉ có một người bạn – một học viên nam cùng tuổi và đó có lẽ là người duy nhất có thể hiểu những gì mà cô tâm sự. Thông qua người học viên nam ấy, cô báo cho tôi biết rằng cô muốn gặp tôi.

Thanh có một tuổi thơ không hạnh phúc. Ra đời năm 1979, cô đã phải theo gia đình vượt biên ra nước ngoài lúc chỉ mới có một tuổi. Gia đình cô được chấp thuận định cư tại Úc, nhưng chỉ hai năm sau, bố mẹ cô ly hôn. Kể từ thời điểm ấy, nhiều sự kiện đã xảy đến và hầu như đã làm xáo trộn cả cuộc đời của cô. Dĩ nhiên khi bố mẹ ly hôn, cô phải chia tay bố và về sống với mẹ.

Cả bố và mẹ cô đều là bác sĩ. Trong ký ức lờ mờ, cô nhớ rằng cha cô là một người đàn ông vũ phu. Ông cưới mẹ Thanh sau khi người chồng trước của bà rời bỏ Việt Nam vào năm 1975. Ông thường đánh đập mẹ Thanh và đôi khi đánh cả đứa con gái bé nhỏ của ông. Theo lời Thanh, có lẽ đó là do “lỗi” của mẹ cô, nghe như thể mẹ cô đã làm điều gì đó sai trái với bố cô vậy (?). Sau khi ly dị năm 1982, ông tiếp tục ở lại Úc; vài năm sau, ông tái hôn và có thêm hai con với người vợ kế. Thỉnh thoảng ông có liên lạc với Thanh và khi Thanh trở nên nghiện ngập, ông đã chu cấp một phần các chi phí cho việc điều trị của Thanh.

Mẹ Thanh đã từng có một con trai với người chồng trước. Khi người chồng rời Việt Nam năm 1975, đứa con trai của họ mới chỉ vài tháng tuổi. Đứa bé này sau đó được gửi nuôi ở nhà người dì (chị của mẹ) khi người mẹ kết hôn lần thứ hai với người mà sau này là cha ruột của Thanh và cậu bé vẫn tiếp tục sống với dì sau khi gia đình của Thanh đi ra nước ngoài. Vào năm 1986, đứa bé trai ấy được 11 tuổi và cậu được chấp thuận sang định cư ở Úc theo diện đoàn tụ với mẹ. Mẹ Thanh lúc ấy đã kết hôn lần thứ ba, lần này là với một người Úc. Vào thời điểm ấy, Thanh vừa tròn 7 tuổi và bốn người – mẹ Thanh, Thanh, người anh cùng mẹ khác cha của Thanh và “bố Úc” (theo cách gọi của Thanh, để phân biệt với “bố Việt” tức là người cha ruột) cùng sống chung với nhau. Hai năm sau, cậu bé trai 13 tuổi này bị bắt vì có liên can đến những vụ buôn lậu ma túy. Cảnh sát đã đến nhà cậu (thực ra là nhà của “bố Úc”) và bắt cậu đưa vào trại giam. Sự kiện này được nhìn nhận như là một mất mát lớn cho cả người mẹ lẫn Thanh, bởi vì cả hai người đếu rất thương yêu cậu bé. Tuy nhiên, người “bố Úc” đã nổi giận, ông quy trách nhiệm cho mẹ Thanh đã để cho con trai mình sa vào con đường tội lỗi, nhất là khi sự việc bắt giữ của cảnh sát đã xảy ra ngay bên trong nhà của ông. Một vài năm sau, hai mẹ con Thanh rời Úc sang định cư ở Hoa Kỳ để đoàn tụ với gia đình bên ngoại lúc này đang cùng chung sống tại đó.

Về phần người “bố Úc”, có thể nói ông là một con người rất tốt bụng. Ông cưới mẹ Thanh, rồi chấp nhận nuôi Thanh và xem Thanh như con ruột của mình. Ông làm việc cho một tổ chức của Liên Hiệp Quốc (có lẽ phụ trách về người tỵ nạn?). Thanh đã từng có một quãng thời gian sống rất tươi đẹp bên cạnh “bố Úc”. Khi Thanh còn nhỏ, ông đã nhiều lần đưa cô theo ông ra nước ngoài trong những chuyến công tác của ông. Nhờ thế, Thanh đã từng đến nhiều quốc gia như Kampuchia, Bosnia, Malaysia, Indonesia... bất cứ nơi nào có xảy ra chiến tranh, bất ổn hoặc có người tỵ nạn. Ngoại trừ sự kiện người anh bị bắt giữ nói trên, mọi chuyện xảy ra trong thời gian ấy đều là những kỷ niệm đẹp đối với Thanh. Chính sự kiện này có lẽ đã phần nào khiến mối quan hệ giữa mẹ Thanh và “bố Úc” trở nên xấu đi. Và vì thế, lúc Thanh khoảng 10 tuổi, cô phải theo mẹ đến Mỹ để sống với gia đình ngoại và các dì. Thanh đã không kể cho tôi nghe về mối quan hệ sau đó giữa mẹ và “bố Úc”, nhưng rõ ràng là cô vẫn còn giữ liên lạc với ông bố người Úc mãi cho đến ngày cô vào điều trị tại trung tâm của chúng tôi.

Tại Mỹ, Thanh và mẹ sống chung với gia đình của một người dì. Người mẹ đã phải gánh chịu bao lời chỉ trích từ những người thân trong gia đình về tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời của bà. Khi Thanh 14 tuổi, mẹ cô mắc phải bệnh ung thư. Những tháng ngày cuối cùng trước khi mẹ mất là khoảng thời gian u tối nhất đối với Thanh. Cô đã ở bên cạnh giường để chăm sóc cho mẹ và đã chứng kiến những nỗi đau đớn, khổ sở của bà. Người mẹ đã phải dùng đến các thuốc gây nghiện để giúp làm giảm cơn đau và một lần nọ, bà đã cay đắng nói với Thanh rằng bà muốn dùng những loại thuốc kia để giết chết Thanh rồi tự sát đi cho xong. Sau khi mẹ mất, cuộc sống của Thanh gần như bị mất phương hướng. Gần một năm sau, cô bị lạm dụng tình dục bởi chính con trai của người dì ruột. Và cũng vào năm đó, lúc tuổi đời chỉ mới 15, Thanh bắt đầu sử dụng và nghiện heroin.

Tất cả những sự kiện nêu ra trên đây đã được Thanh kể cho tôi nghe trong khoảng thời gian một tiếng rưỡi vào buổi đầu tiên tôi tiếp xúc với cô trong trung tâm cai nghiện. Phì phèo điếu thuốc lá trên môi, cô nói bằng một chất giọng vô cảm khiến cho rất khó có thể biết được cô đang thực sự cảm thấy như thế nào. Cô liệt kê ra tất cả những mất mát mà cô đã gặp phải trong đời theo thứ tự thời gian: “Em mất quê hương lúc một tuổi; mất cha lúc ba tuổi; mất anh trai (cùng mẹ khác cha) lúc chín tuổi; mất mẹ lúc 14 tuổi và mất bản thân mình lúc 15 tuổi”. Cô nói cô không biết mình là ai, sinh ra để làm gì, từ đâu tới và rồi sẽ đi về đâu... Cô dùng từ tiếng Anh identity crisis (khủng hoảng bản sắc) để nói về giai đoạn tuổi vị thành niên của mình. Và sau cùng, cô cám ơn tôi đã gặp và lắng nghe cô nói.

Sau lần gặp đầu tiên ấy, Thanh không tìm cách gặp riêng tôi thêm lần nào nữa. Tất cả những chuyện khác mà tôi biết được về cô là do nghe được từ lời kể của những nhân viên trong trung tâm. Tôi biết Thanh có một người cô (em gái của bố ruột) vẫn còn sống tại Tp.HCM. Tiền chu cấp của “bố Việt” lẫn “bố Úc” đều được chuyển về cho người cô này và người con trai của bà (anh họ của Thanh), những người đóng vai trò trung gian liên lạc giữa Thanh và những người thân khác bên ngoài trung tâm. Đó cũng là lý do Thanh phải về Việt Nam để lo cho việc điều trị lâu dài của cô. Mỗi khi cô rời khỏi các trung tâm cai nghiện, cô sẽ làm công việc của một giáo viên dạy Anh văn, nhưng không ai biết được nơi cô làm việc.

Những hoạt động trong trung tâm dường như có tác dụng làm nên những thay đổi nơi cô. Sau nhiều tháng, cô tham gia vào các hoạt động âm nhạc, nghệ thuật (vẽ, múa, hát...) và tham gia lao động. Cô tham dự những buổi trị liệu nhóm do các giáo dục viên đảm nhận và sau một năm cô đã trở thành một người tập Thái cực quyền tốt đến mức ban giám đốc trung tâm quyết định cho cô làm người trợ giảng cho huấn luyện viên trong các buổi tập. Cô rời trung tâm vào cuối năm 2005.

3.

Chỉ một hoặc hai tháng sau khi Thanh rời trung tâm thì cô nhập viện trở lại. Lần này, cô được đưa vào phòng cấp cứu trong tình trạng gần như hôn mê. Cô được phát hiện sau khi đã tiêm quá liều heroin. Mất khoảng 10 ngày để các nhân viên y tế có thể giúp cô hồi phục. Một buổi sáng nọ, cô tìm gặp tôi, khóc và nhờ giúp đỡ. Cô không đồng ý với quyết định của gia đình về thời gian mà cô phải ở lại điều trị tại trung tâm lần này. Cô bảo rằng lần sử dụng heroin vừa rồi không phải vì cô tái nghiện, mà thực sự là một cố gắng để tự sát.

Sau khi rời trung tâm về nhà, Thanh đã đăng ký vào một khóa tập huấn về kỹ năng dạy tiếng Anh. Khi khóa học gần đến ngày kết thúc, cô đã suy nghĩ về ngày bế giảng và mơ ước có sự hiện diện của người cha ruột – “bố Việt” – vào cái ngày đặc biệt ấy, mặc dù “bố Úc” đã chắc chắn với cô rằng ông sẽ đến. Hy vọng thế, cô đã gọi một cuộc điện thoại sang Úc để nói chuyện với bố. Thật bất ngờ, người bố từ chối. Ông bảo rằng ông quá bận không thể về Việt Nam vào những ngày này. Và thình lình, ở đầu dây bên kia, vang lên giọng nói của người mẹ kế với đủ mọi lời lẽ sỉ vả. Người mẹ kế yêu cầu Thanh đừng nên tiếp xúc với chồng bà và không cho phép Thanh “quấy rầy” gia đình của bà nữa.

Những gì xảy ra sau cuộc nói chuyện thì mọi người đã biết. Thế nhưng ý kiến của những nhân viên trong trung tâm về việc đó thì khá là khác nhau. Hầu hết mọi người đều tin rằng Thanh đã tái nghiện vì thế cô phải trở lại từ đầu chương trình điều trị một lần nữa. Một số người khác (ít hơn), bao gồm cả tôi, cho rằng cần phải giúp Thanh vượt qua cơn khủng hoảng hiện tại và cô không nhất thiết phải ở lại lâu dài trong trung tâm trừ khi chính cô quyết định như thế. Tôi thực hiện một số buổi tham vấn với Thanh, mỗi một hoặc hai ngày một lần. Tuy nhiên, sự từ chối của những người thân không đến trung tâm thăm viếng cô (kể cả “bố Úc” lúc ấy đã có mặt trong thành phố) đã làm cho tâm trạng của cô ngày càng xấu đi. Còn ban giám đốc trung tâm thì đến lúc đó vẫn chưa có một quyết định nào về trường hợp của Thanh.

Tôi quyết định mang vấn đề của cô ra cuộc họp của các giáo dục viên vào ngày thứ sáu của tuần lễ ấy. Như thường lệ vào những cuộc họp chuyên môn của các nhân viên giáo dục mỗi thứ sáu hằng tuần, tôi có trách nhiệm phải tập huấn chuyên môn hoặc giám sát công việc của các giáo dục viên trong trung tâm. Nhiều người trong số họ không có ấn tượng tốt về Thanh, một học viên mà họ cho là “khó tiếp cận”. Tôi thiết kế một “kịch bản” về một trường hợp giả định nhằm mục đích huấn luyện. Các chất liệu từ trường hợp của Thanh được sử dụng để thiết kế kịch bản ấy. Tôi nói với các nhân viên rằng tôi cần sự giúp đỡ của họ để có thể giải quyết những khó khăn mà tôi gặp phải trong ca này. Tôi nói cách tốt nhất mà họ có thể giúp tôi là họ hãy tham gia vào hoạt động sắm vai cùng với tôi. Tôi đóng vai người cha của một học viên nữ đang ở trong trung tâm (với tình huống giả định có những chi tiết tương tự như trường hợp của Thanh). Các giáo dục viên có thể thay phiên nhau từng người sắm vai một nhân viên chịu trách nhiệm tiếp người cha ghé đến trung tâm để nói chuyện về tình hình của con gái ông. Trong dự định của tôi, cuộc sắm vai này có thể được thực hiện để đồng thời nhắm đến hai mục đích. Trước tiên, tôi muốn tạo một cơ hội cho các giáo dục viên có được “cái nhìn từ một góc độ khác” từ đó họ có thể hiểu hơn về suy nghĩ của những người khác, cụ thể trong tình huống này là suy nghĩ của người nữ học viên, của người cha, và có thể là cả những suy nghĩ của tôi nữa. Mục đích thứ hai là tôi cũng thực sự muốn biết được một người cha trong tình huống ấy sẽ suy nghĩ gì và cảm thấy thế nào, cũng như liệu những người khác sẽ trông đợi gì ở một người cha trong tình huống tương tự như trường hợp của Thanh. Trong cuộc sắm vai, tôi hợp nhất “hai người cha thật” của Thanh ở ngoài đời thành một người cha giả định, mà vai của người cha tưởng tượng ấy do tôi đảm nhận.

Cuộc sắm vai đã mang lại những trải nghiệm mới mẻ cho tất cả những người dự họp. Các giáo dục viên tham gia sắm vai đều nhận ra được những mối bận tâm cũng như những vấn đề khó khăn của người cha, họ đồng ý cần phải giúp người nữ học viên kia hồi phục về sức khỏe thể chất và vượt qua cơn khủng hoảng tinh thần. Một trong số những giáo dục viên tham gia sắm vai đã yêu cầu người cha ghé vào trung tâm thăm viếng và hỗ trợ tâm lý cho con gái mình. Một giáo dục viên khác khẳng định rằng người nữ học viên cũng phải tự có trách nhiệm với quá trình hồi phục của mình và phải tuân thủ những luật lệ của trung tâm nếu cô muốn người khác giúp đỡ cô. Tất cả những ý kiến được nêu ra trong cuộc sắm vai ấy đã giúp làm mọi việc trở nên rõ ràng hơn. Vào cuối cuộc họp, một số giáo dục viên nhận ra rằng trường hợp giả định mà tôi đưa ra đích thực là trường hợp của Thanh và họ đề nghị người trưởng bộ phận giáo dục hãy bàn bạc cách thức giải quyết vấn đề của Thanh. Vị trưởng bộ phận nói bà sẽ nói chuyện với ban giám đốc và sẽ có câu trả lời sớm.

Vài ngày sau, tôi tiếp tục làm việc với Thanh với nhịp độ và số buổi gặp thưa hơn tuần lễ trước. Thanh được kê đơn các thuốc chống trầm cảm và giải lo âu để góp phần cải thiện tâm trạng của cô. Ban giám đốc phân công một nhân viên tiếp xúc với gia đình của người cô và với “bố Úc”, yêu cầu họ đến thăm Thanh tại trung tâm để hỗ trợ tinh thần cho cô. Vài tuần sau, Thanh được yêu cầu tham gia vào các hoạt động của trung tâm, bắt đầu là các hoạt động âm nhạc, thể dục và lao động nhẹ. Chúng tôi thay đổi cách thức hỗ trợ tâm lý cho Thanh từ hình thức tham vấn cá nhân sang hình thức những sinh hoạt theo nhóm và giúp Thanh thiết lập lại quan hệ với những học viên khác. Ba tháng sau, Thanh được phép rời khỏi trung tâm.

Tôi đã gặp lại Thanh một lần sau đó vào năm 2007, ở một trung tâm cai nghiện tư nhân khác. Lúc gặp tôi, cô đã ở đó được vài tháng. Lần này thực sự là do cô tái nghiện. Không nghi ngờ gì nữa, việc phục hồi từ tình trạng nghiện ma túy là điều không phải dễ dàng, nhất là trong trường hợp của Thanh. Cô đã cười và chào khi gặp tôi. Tôi thấy cô đang tham gia vào một nhóm “tự giúp” được tổ chức trong khuôn khổ một dự án có tài trợ của nước ngoài. Những hoạt động trong nhóm này dựa trên các nguyên lý “Mười Hai Bước” tương tự như những nguyên lý của tổ chức N.A. (Tổ chức Những Người Nghiện Ma Túy Ẩn Danh) ở Mỹ. Và đó là lần sau cùng tôi gặp được Thanh tính cho đến nay.

4.

Liệu chúng ta có thể trông đợi điều gì ở Thanh – một cô gái có quá nhiều mất mát và đau buồn trong cuộc sống? Và bằng cách nào mà chúng ta có thể làm cho mọi việc trở nên tốt hơn trong trường hợp của cô? Tôi không biết. Tôi thực sự không biết. Tôi chỉ biết rằng cuộc sống thực sự không dễ dàng, nhưng chúng ta vẫn có khả năng. Đó chính là điều mà chúng ta gọi là “sức chịu đựng” ở những con người như Thanh.

Khi tôi viết bài viết này, khóa huấn luyện đầu tiên tại Việt Nam về trị liệu hệ thống đã gần như kết thúc. Thông qua làm việc với những thân chủ ngày này qua ngày khác, tôi thấy mình trở lại là một “thầy thuốc”, như thể tôi đã đi trên một đường vòng trở về lại nơi xuất phát, chỗ mà giờ đây có thể xem là nơi đến. Thực hành tâm lý trị liệu khiến nghề nghiệp của tôi trở nên có giá trị hơn, và giờ đây tôi đã có thể thực hành điều mình đã học.

Tôi nghĩ rằng việc tự hiểu bản thân cũng như hiểu được những gì mà người khác trải nghiệm là những điều rất quan trọng cho bất cứ ai muốn trở thành một nhà tâm lý trị liệu.
Và tôi cũng vậy.  

BS NGUYỄN MINH TIẾN
Tp.HCM, 30-03-2008

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

TÔI ĐÃ THẤY EM QUA NÉT VẼ



BS. NGUYỄN MINH TIẾN

(Bài đã đăng trên Báo Phụ Nữ Tp.HCM ngày 1-3-1998 và đăng lại trên website TLTL)


... Gần 4 giờ chiều.

Cứ vào giờ này mỗi thứ hai, học sinh toàn trường phải xuống sân dự buổi sinh hoạt đầu tuần, nhưng đến lúc này, các em lớp bảy vẫn ngồi lại kia, trong phòng học đã hắt đầy nắng chiều qua những khe cửa.

Chúng tôi đến đây hôm nay để làm nốt những phần còn lại của việc khảo sát tâm lý cho các em học sinh. Trong tay tôi là tập hồ sơ ghi lại những đặc điểm, tính cách và hoàn cảnh của từng em. Chiều nay chỉ làm thêm phần khám thể lực và bổ sung một số chi tiết đáng lưu ý. Trước khi đến, BS. Chi có nhắc nhở tôi về những điểm này và tôi đặc biệt lưu tâm đến những bức tranh “vẽ tự do” mà các em đã vẽ vào lần trước. Tôi phụ trách khám các em nam, BS. Chi khám các em nữ.

Những bức vẽ là phần quan trọng không thể thiếu khi khảo sát tâm lý trẻ em. Vừa cầm chúng trong tay, vừa hỏi, tôi nhận được những lời giải thích và ý kiến thú vị từ những “họa sĩ nhí”.

- Sao thân cây này thẳng quá vậy?
- Dạ... tại em không biết vẽ, nên dùng thước kẽ...
...
- Sao bầu trời trên mái nhà lại có cỏ mọc?
- Không phải đâu. Đó là đàn chim đang bay.
...
- Em vẽ mặt trời là có nghĩa gì?
- Dạ, em muốn môi trường được trong lành.
- Sau này em thích làm gì?
- Dạ... em thích làm việc... nghiên cứu về môi trường
- Là sao?
- Là... làm sao tránh được ô nhiễm môi trường.

Tôi cười. Giọng em rất chân thành. Không có vẻ gì là “trả bài” cả.

Đến lượt bức vẽ của C., cậu nam sinh nhỏ nhắn có gương mặt khôi ngô. Trên trang giấy là hình một cây cao rậm lá, dưới gốc cây có hai người đang đứng.

- Đây là ai vậy?
- Dạ... là em và bạn em.

Tôi chú ý đến phần trên cao của tàn lá. C. đã vẽ một tổ chim, từ đó vươn ra hai cái đầu của chim non. Một con chim lớn đang bay từ xa, hướng bay đi về phía tổ. Tôi thắc mắc không biết đây là chim bố hay chim mẹ. C. không đáp. Dường như em cảm thấy khó khăn tìm lời lý giải cho chính “tác phẩm” của mình.

Hồ sơ của C. ghi: Em sống với mẹ và bố dượng; hoàn cảnh đủ ăn. C. chỉ lo học, không cần làm thêm việc để phụ giúp gia đình. Mẹ có thêm một con với bố dượng.

- Ba em ở đâu?
- Ba má em ly dị. Ba em ở nước ngoài.
- Em có nhớ ba không?

C. lắc đầu:
- Ba em đi lúc em mới 2 tuổi.
- Ba có gửi thư về nhà không?
- Có hai lần. Chỉ gửi riêng cho em.

Tôi nhìn lại bức vẽ. Phải chăng con chim lớn kia là chim bố, tôi nghĩ. C. lại nói:
- Nhưng ba em không phải là người tốt. Nghe nói hồi trước, ba em hay làm khổ má. Có lần chửi mắng và đánh cả ông nội.
- Ông nội em ở đâu?
- Ông mất rồi.

Để bớt nặng nề, tôi hỏi sang những chuyện khác. Nhưng rồi chủ đề người cha của C. đột ngột trở lại khi tôi hỏi:
- Đêm ngủ em có hay nằm mơ không?
- Có. Vài lần em thấy ba về.
- Em có mong ba trở về không?
C. nhíu mày:
- Em... không có chút tình cảm nào với ba cả!

Tôi không hỏi nữa. C. bước ra xếp hàng cùng các bạn để xuống sân và ra về. Buổi khám kết thúc, nhưng trong đầu tôi vẫn còn nhiều câu hỏi. Bức hình với con chim lớn đang bay về tổ và giấc mơ thấy người cha trở về có ý nghĩa gì? Liệu chúng có phản ánh một ước muốn của C.?

Nói theo các nhà phân tâm học thì những hình vẽ và giấc mơ của trẻ em có thể biểu hiện những ước muốn và nguyện vọng chưa được giải quyết trong thực tế. Nếu vậy, mong muốn được gặp người cha có thể vẫn còn sống động trong tiềm thức của C., dẫu rằng hiện tại, với những suy nghĩ của một cậu bé vị thành niên (hoặc do ngoại cảnh chi phối?), C. đã phủ nhận tình cảm của mình dành cho người cha. Liệu rằng điều này có đúng không? Hay những nét vẽ và giấc mơ kia chỉ là “trùng hợp”, “ngẫu nhiên”, “vô thưởng vô phạt”? Và điều gì sẽ xảy ra nếu một mai kia, C. gặp lại cha ruột của mình? Tôi thực sự không biết. Nhưng tôi mong C. sẽ trưởng thành trong cuộc sống và sẽ tìm được cách ứng xử phù hợp trong tình huống ấy.

Tôi dắt xe rời khỏi sân trường. Một tốp nam sinh trong những bộ đồng phục cùng màu tụ tập trước cổng. Có ai biết mỗi em là một thế giới riêng? Tôi chợt nhớ đến một câu nói của nhân vật Hoàng Tử Bé trong tác phẩm cùng tên (Le Petit Prince) của nhà văn Pháp, Saint-Exupéry: “Cái làm cho sa mạc đẹp ra, ấy là: Nó che giấu một cái giếng ở đâu đó...”

Tâm hồn trẻ em cũng vậy, cũng ẩn khuất đâu đó những mạch nước chưa khơi...

(Ghi nhận tại trường Hà Huy Tập, Bình Thạnh, Tp.HCM, ngày 24-02-1998)





Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

Kỷ niệm trường Y

Sáu năm học trường Y (1981-1987) chỉ có mỗi mấy tấm hình này là còn tìm được. Thanks bạn Xuân Quang là người đã mang máy để chụp những tấm ảnh ấy và bạn Kiều Nguyệt đã post chúng lên web Y81.info.



Nhóm "Ca khúc chính trị" lớp Y81E (Chủ blog đứng thứ 3 bên phải sang)

Chủ blog ở hàng sau, thứ 2 bên trái sang

Chủ blog đứng giữa, đang đùa, 2 bạn kia giờ đã ở nước ngoài.


Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012

Má ơi! Con được sinh ra từ đâu?

BS. NGUYỄN MINH TIẾN


-          Má ơi, tại sao có con?
-          Thì má đẻ ra con chứ sao.
-          Nhưng mà đẻ là sao?

Image result for mẹ và con nhỏ

Tôi từ đâu đến?” là thắc mắc muôn thuở được gợi lên trong tâm trí mỗi người, kể từ lúc bắt đầu hình thành “cái tôi đáng ghét”; từ những đứa trẻ lên năm, lên sáu, đến những triết gia đầu bạc đều “trăn trở” tìm lời giải đáp cho câu hỏi ấy.

Trẻ con không đặt vấn đề “cao siêu” như triết gia, nhưng cũng đủ để cho các bậc cha mẹ khó trả lời, vì điều trẻ hỏi cũng khá “tế nhị” ngay cả đối với người lớn. Người viết cũng từng được nghe một câu hỏi rất “hiểm hóc” từ một bé trai 6 tuổi như sau: “Có cái gì nối giữa ba với mẹ mà tại sao mẹ đẻ ra con mà con lại giống ba?!!” Không ít bậc cha mẹ đã chọn “giải pháp trung dung” khi đáp “Con chui từ bụng mẹ qua lỗ rốn để ra ngoài chứ bằng cách nào”. Và cái lỗ rốn, một vật “vô can” nhưng lại dễ thấy, được đem ra để giải quyết cái thắc mắc đầy tế nhị của trẻ. Cũng có câu trả lời theo kiểu “đánh trống lãng” như: “Mẹ lượm con từ thùng rác ở ngoài đường” hoặc là “Con từ dưới đất chui lên chứ đâu”. Đứa trẻ vẫn ngơ ngác, nhưng nó im lặng không hỏi nữa, hoặc vì hỏi mãi cũng không xong, hoặc vì người lớn khéo dẫn dắt trẻ sang một đề tài khác...

Nếu mẹ lại có thai rồi sinh thêm em bé khác, trẻ sẽ càng để ý và càng muốn biết mẹ sinh em bé như thế nào. Nhung vì trẻ “lớn rồi”, “có em rồi”, hỏi bâng quơ như vậy không được coi là “ngây thơ”, “dễ thương” nữa, mà trái lại còn có thể khiến người lớn nổi quạu là đằng khác! Trẻ thất vọng, hụt hẫng, đành xoay sự tìm tòi về hướng khác. Thấy trẻ hết thắc mắc, cha mẹ tưởng trẻ quên, nhưng không.

Tuy không được giải thích chuyện mẹ sinh em bé thế nào, nhưng trẻ vẫn có thể thấy gà đẻ trứng hoặc chó đẻ con. Thực tế, nhiều trẻ đã dần dần biết được chuyện tế nhị ấy qua chúng bạn hoặc những người lớn khác ngoài gia đình, hoặc cũng có thể qua sách vở, phim truyện... có khi bằng những cách giải thích chẳng tế nhị chút nào.

Điều tế nhị đặt ra ở đây cũng là khởi điểm đầy khó khăn của việc giáo dục giới tính như thế nào cho trẻ nhỏ. Giáo dục giới tính nhiều lúc vẫn thường được hiểu với ý nghĩa hạn hẹp là sự “hướng dẫn về luyến ái, hôn nhân và quan hệ tình dục nam nữ”; và một số bài viết về chuyện ấy cho người lớn cũng có lúc được đặt dưới đề mục “giáo dục giới tính”. Việc này dễ khiến cho các bậc phụ huynh và giáo giới ngại ngùng, lúng túng khi đề cập chuyện này với trẻ em và thiếu niên.

Trở lại với đứa trẻ lứa tuổi mẫu giáo, bạn vẫn thường dễ dàng chỉ cho trẻ thấy sự khác nhau giữa gà trống và gà mái, dế trống và dế mái, cá kiểng đực và cá kiểng cái cơ mà. Việc phân biệt con gái, con trai cũng đã bắt đầu được trẻ nhận rõ từ lứa tuổi này. Có thể cho trẻ trai chơi những trò chơi năng động, rèn luyện tính can đảm, tính “nghĩa hiệp” của “phái mạnh”; tập cho bé gái nói năng nhẹ nhàng, ứng xử thùy mị, giúp mẹ làm một số việc nhỏ trong nhà vv... Và trong mọi trưòng hợp, một môi trường gia đình lành mạnh với những quan hệ yêu thương giữa cha mẹ, con cái và các thành viên khác là cơ sở tốt nhất để giáo dục giới tính cho trẻ nhỏ.

Sau 6 tuổi, trẻ bước vào bậc tiểu học, rồi sau đó là những năm tháng học cấp 2, cấp 3, với bao môn học giúp trẻ mở mang kiến thức, vốn hiểu biết về “chuyện ấy” có thể tiếp tục tăng thêm. Sao không chỉ cho trẻ nhỏ xem những cây đu đủ, cây nào có trái, cây nào không có trái? Sao không cho trẻ xem những bông hoa, đâu là nhị đực, đâu lànhụy cái, nói cho trẻ biết sự thụ phấn xảy ra như thế nào, và nhờ đâu hoa kết thành quả? Đâu nhất thiết phải liên hệ ngay đến “chuyện ở người” và cũng không nên im lặng, để trẻ tự tìm hiểu hoặc nghe theo những diễn giải “đời thường”, thậm chí để cho đến khi xảy ra “sự cố” mới tìm cách giải quyết thì đã muộn. Đâu nhất thiết phải có riêng một “môn” giáo dục giới tính, chỉ cần giáo viên, thông qua việc dạy các kiến thức khoa học thường ngày, có thể nói về điều ấy (việc duy trì nòi giống của các loài sinh vật) một cách thích hợp tùy từng lứa tuổi và cấp lớp của học sinh. Trẻ sẽ dần dần hiểu biết về đời sống tự nhiên của các loài cây cỏ, thú vật, cảm nhận được tình yêu thương đồng loại, mở rộng cái nhìn của trẻ về thế giới xung quanh một cách khoa học hơn.

Sự phát triển tự nhiên về tâm sinh lý, cùng với sự quan tâm đúng mức và kịp thời của cha mẹ, sự dạy dỗ của thầy cô qua những môn học ở trường... sẽ giúp trẻ trám dần những khoảng “hụt hẫng thông tin”, hiểu dần ý nghĩa của những việc “tế nhị” mà mình đã thắc mắc lúc nhỏ. Rồi những hình tượng “lỗ rốn”, “thùng rác”, “lỗ nẻ” chỉ còn đọng lại trong trí như những kỷ niệm đẹp của một thuở ấu thời ngây thơ...

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2012

Cảm ơn Anh, người không quen biết...

Ký sự trường thuốc

Bài Ký sự này ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ của bản thân tác giả trong những ngày tháng đầu tiên bước vào học tập nghề y. Xin chân thành cảm ơn những con người mà khi chết vẫn dành thân xác mình để phụng sự cho y học và cho sự sống.
BS NGUYỄN MINH TIẾN



Đã nhiều năm qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ cái cảm giác bồi hồi, nao nao kỳ lạ khi lần đầu tiên nhìn thấy Anh. Có lẽ mọi sinh viên y khoa năm thứ nhất cũng đều cảm thấy như vậy, bởi lẽ đó là lần đầu tiên trong đời chúng tôi được nhìn thấy một xác người khô.
Anh nằm đó, lặng yên, giữa phòng thực tập của bộ môn Cơ thể học (Anatomy), trường Đại học Y khoa. Màu da Anh không còn vẻ tươi sáng, hồng hào, mà sẫm lại, nên từ xa trông Anh như một thân cây khô. Một bác sĩ ngồi bên cạnh, dùng dao mổ rạch da rồi hí hoáy bóc tách dần những lớp cơ trên cánh tay trái của Anh. Khi chúng tôi đến gần, vị bác sĩ ngẩng lên, mỉm cười và nói: "Sinh viên Y1 phải không? Làm quen với xác chết đi. Muốn giỏi môn cơ thể học thì ngoài việc đọc sách, nghe giảng, còn phải biết học trên xác nữa”.
Trên cánh tay của Anh lúc ấy bắt đầu lộ dần ra những huyết quản, những gân cơ và những dây thần kinh, và vị bác sĩ đàn anh vừa làm vừa chỉ dẫn cho chúng tôi. Các nữ sinh viên là những người e ngại nhất. Họ đứng sau chúng tôi, có người lấy tay bịt mũi vì formol từ các bồn ngâm xác bốc lên làm cay xè cả mắt mũi. Mặc cho lưỡi dao đang rạch trên da thịt, mặc cho những người xung quanh đang xem xét, bàn luận, mặc cho các cô gái ngại ngùng, Anh vẫn nhắm nghiền mắt, gương mặt như đang ngủ, không chút biểu hiện gì của cảm xúc, bởi Anh đã thực sự thoát khỏi những lo toan, vướng bận của cuộc đời.
Cuối giờ thực tập, khi tất cả sinh viên rời khỏi phòng, người ta lại ngâm Anh vào một bồn chứa hỗn dịch alcohol và formol để bảo quản da thịt Anh không bị hư hoại. Cái mùi formol ấy cứ bám vào quần áo, bám vào trong hốc mũi, thậm chí bám vào cả đầu óc tôi (!), làm cho tôi mất hẳn cảm giác ăn ngon vào bữa ăn chiều hôm ấy. Thậm chí đến đêm, nét mặt Anh cũng vật vờ trong giấc ngủ của tôi.
Nhưng mọi cảm giác rồi cũng quen dần. Trong năm học thứ nhất (năm Y1), Anh như thể một quyển sách sống động, luôn bày ra trước mắt chúng tôi những cảnh tượng thật về các cấu trúc tinh vi của cơ thể con người, những thứ mà trước đây chúng tôi chưa hề được nhìn thấy. Hễ trên lớp thầy giảng đến phần nào của cơ thể, thì vài hôm sau, phần tương ứng trên cơ thể của Anh sẽ được các bác sĩ bộc lộ ra để chúng tôi xem. Cứ thế hết học kỳ I, sang học kỳ II, và rồi ngày thi cuối năm cũng đến. Chúng tôi không để tâm đến chuyện gì khác ngoài việc “bù đầu” cho các môn học.
Hôm ra thi vấn đáp môn Cơ thể học, tôi phải đứng trước một bác sĩ giảng viên, trả lời các câu hỏi mà vị bác sĩ ấy đặt ra và phải chỉ rõ cụ thể những bộ phận cấu tạo trên một xác người. Khi buổi thi kết thúc, lúc vị giảng viên đang ghi điểm của tôi vào sổ, tôi chợt nhìn lại và nhận ra nãy giờ mình đang đứng cạnh Anh. Một cảm giác nao nao lại trỗi dậy, nhưng không giống như lần đầu tiên nhìn thấy Anh. Cảnh tượng trước mắt tôi cũng khác với lần đầu, bởi trên người Anh lúc đó hiện ra gần như tất cả những gì mà chúng tôi đã được học. Buổi thi kết thúc, đám sinh viên rời khỏi phòng. Tôi đi ra hành lang bên ngoài, không khí vẫn thoảng mùi formol giờ đã trở nên quen thuộc. Tôi bước nhanh nhưng còn kịp thấy ở phòng bên người ta vừa mới đưa thêm vào một số xác mới…
Những năm sau đó, cứ mỗi lần lật quyển sách cơ thể học, nhìn vào các hình vẽ nhiều màu mô tả những bộ phận cấu tạo của cơ thể con người trên những trang giấy thơm phức, tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu con người như Anh đã âm thầm giúp y học làm nên những trang sách như vậy? Anh là ai? Anh tên gì? Tôi không biết. Những người như Anh đều được mang một cái tên chung là những xác chết vô thừa nhận, bởi những năm ấy đâu đã có những người tự nguyện hiến xác.
Từ trước đến nay, theo truyền thống, các trường đại học y khoa vẫn có thông lệ tổ chức hằng năm những buổi lễ tưởng niệm – có tên gọi là “Ngày hội của những xác chết" (Fête des Maccabées) – để bày tỏ lòng biết ơn của y giới đối với những con người như Anh, bởi Anh đã chết nhưng vẫn còn cống hiến cho chúng ta, những người còn sống…


Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

Những ngày xa xưa... đi dọc chiều dài đất nước...

Tốt nghiệp Y khoa năm 1987, bắt đầu làm việc tại Trung tâm Lao - Bệnh Phổi Phạm Ngọc Thạch từ 1988 đến 1991, tôi có cơ hội thực hiện những chuyến công tác xa và đã đến được nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước... Những ngày ấy còn khó khăn, ốm o gầy mòn hơn nay rất nhiều.




Bồ biển Hà Tiên năm 1989, khi ấy Hòn Phụ Tử vẫn còn nguyên vẹn.



Biển Đại Lãnh, nhìn từ trên cao






Vĩ tuyến 17, cầu Hiền Lương, Quảng Trị 1990, trên đường công tác ra Bắc




Hồ Gươm, Hà Nội, 1990


Ảnh chụp ngày trước không dồi dào bằng bây giờ. Rất quý những chuyến công tác để đời như thế. Cho dù có những lần gặp khó khăn, thậm chí là tai nạn... Nhưng rồi mọi việc vẫn êm xuôi.  Công tác đảm nhiệm lúc ấy là bác sĩ chỉ đạo tuyến của Chương trình Chống Lao Quốc gia.


Rời BV Phạm Ngọc Thạch tháng 3-1991, kết thúc giai đoạn làm việc đầu tiên sau khi ra trường... Cũng bắt đầu con đường hành nghề tự do và cũng nhiều điều mới lạ hơn sau này.

Trăng Non - Cơ sở trị liệu tâm lý trẻ em và gia đình

Từ những ngày đầu hình thành và phát triển...




Kể từ ngày thành lập đến nay (2001), cái tên Trăng Non ngày càng trở nên quen thuộc hơn đối với cả những người hoạt động chuyên ngành lâm sàng tâm lý lẫn những thân chủ cần đến sự hỗ trợ về tâm lý... Trăng Non có thể được hiểu như một tập thể hoạt động khoa học (Chi Hội Trăng Non), hoặc như một cơ sở hoạt động chuyên môn (Câu lạc bộ Trăng Non), hoặc rộng hơn Trăng Non có thể được xem như một ý tưởng (chí hướng phát triển ngành nghề tâm lý lâm sàng và tâm lý trị liệu tại Việt Nam)... 

Chi hội Trăng Non được thành lập theo quyết định số 13/VP01 của Hội Tâm lý - Giáo dục học Tp.HCM (nay là Hội Khoa học Tâm lý - Giáo dục Tp.HCM) do PGS. TS. Trần Tuấn Lộ (lúc bấy giờ là Chủ tịch Thành Hội) ký ngày 8-5-2001, với ba sáng lập viên gồm ông Nguyễn Minh Tiến (bác sĩ), bà Nguyễn Thị Thanh Điệp (nhân viên xã hội) và bà Nguyễn Thị Thuyên (đại diện phụ huynh).

Tên gọi chính thức đầu tiên mà Chi hội đăng ký hoạt động là Chi Hội Giáo dục và Hỗ trợ Gia đình Trẻ Thiểu năng Tâm trí (Association of Education and Family Support for Mentally Disabled Children) và "Câu lạc bộ Trăng Non" là tên gọi thông dụng (cũng được đăng ký chính thức) dành cho trụ sở hoạt động của chi hội. Về sau, các hoạt động chuyên môn của CLB mở rộng sang lĩnh vực tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu, không chỉ cho đối tượng trẻ em có các vấn đề khó khăn về tâm lý và phát triển, mà còn cho cả đối tượng vị thành niên, thanh niên và các gia đình có vấn đề khó khăn về tâm lý. Cái tên Trăng Non ngày càng được biết đến nhiều hơn với các hoạt động chuyên môn liên quan đến lĩnh vực tâm lý trị liệu cho các trẻ em, vị thành niên và gia đình.

Nhờ sự giúp đỡ của Trung tâm Y tế quận Phú Nhuận và được sự đồng ý chấp thuận của Ủy ban Nhân dân quận Phú Nhuận, vào tháng 11-2001, Chi Hội đã được phép sử dụng một phần mặt bằng lầu 2 của Trạm Y tế Phường 3, Phú Nhuận để làm cơ sở hoạt động. Kể từ tháng 1-2002 đến nay, địa chỉ 29 Phan Xích Long, P.3, Phú Nhuận, Tp.HCM đã trở thành một nơi chốn sinh hoạt cho các trẻ em có các vấn đề trở ngại về tâm lý phát triển, cho các phụ huynh của các em, và đồng thời cũng là một nơi chốn để những cán bộ tâm lý trẻ tuổi đến sinh hoạt, gặp gỡ, học tập và thực hành chuyên môn.

Vì sao là TRĂNG NON?





Trong ý tưởng của những sáng lập viên, Trăng Non là hình ảnh của vầng trăng "trước ngày rằm", tức là "trăng sắp tròn". Có một chút tính chất thi vị khi ví hình ảnh của trăng sắp tròn với lứa tuổi trẻ em và vị thành niên, vì khi ấy, Chi hội Trăng Non có định hướng làm việc chủ yếu là để phục vụ cho các đối tượng ở những lứa tuổi này. Nếu "trăng tròn" tượng trưng cho tuổi mới lớn, thì "trăng non" là hình ảnh của tuổi chưa lớn hoặc sắp lớn vậy.

Tuy nhiên, ở trăng còn có một điểm đáng để ta chú ý, đó là dẫu khi ta thấy trăng tròn hay khuyết, thậm chí cả khi trăng không xuất hiện trên bầu trời hoặc bị mây che khuất, thì trăng vẫn luôn hiện diện ở một nơi nào đó và VẪN LUÔN TRÒN ĐỀU ĐẦY ĐẶN. Thế mới hay, cái mà ta thấy là trăng khuyết, trăng non, hay trăng tròn, vốn chỉ là cái hiện tượng được nhìn thấy bên ngoài chứ bản tính của trăng thì vẫn nguyên như thế không đổi. Một điều ngụ ý khác cũng có thể nêu ra ở đây là trăng thể hiện ra là tròn hay khuyết là tùy ở chỗ trăng được chiếu sáng đầy đủ hay không; khi được chiếu sáng đầy đủ ta hẳn sẽ nhìn thấy trăng tròn. Điều ngụ ý ấy cũng là điều tâm niệm của những thành viên Trăng Non khi làm việc với những trẻ em khiếm khuyết, những con người bất hạnh hoặc cả khi đang học tập, rèn luyện khả năng nghiệp vụ của chính bản thân mình.

Cái thay đổi của trăng trong cách thể hiện do thế vẫn không làm thay đổi bản chất của trăng; và trong suốt những chu kỳ hết tròn lại khuyết ấy, cái giai đoạn "trăng non" là giai đoạn thể hiện một hình ảnh về trăng với tính chất trẻ trung nhất, đầy tiềm năng nhất, đồng thời cũng mạnh mẽ và đầy sức sống nhất. Cũng vì thế mà từ khi hình thành Chi hội đến nay, cái tên Trăng Non được ngầm hiểu là một Ý TƯỞNG hơn là một CƠ CẤU hay một TỔ CHỨC; sự phát triển của Trăng Non thể hiện trên sự mở rộng và nâng cao về mặt ý tưởng phát triển ngành nghề nhiều hơn là sự gia tăng nhân sự hoặc mở rộng cơ sở hoạt động...

Trăng Non - Một trụ sở hướng đến phát triển việc học tập và thực hành tâm lý trị liệu

Trăng Non hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu, không chỉ cho đối tượng trẻ em có các vấn đề khó khăn về tâm lý và phát triển, mà còn cho cả đối tượng vị thành niên, thanh niên và các gia đình có vấn đề khó khăn về tâm lý, cảm xúc và khó khăn trong các mối quan hệ xã hội mà vì đó đã gây trở ngại cho sự phát triển và trưởng thành của bản thân.

Nhiều vấn đề khó khăn về tâm lý trẻ em và vị thành niên cần được phát hiện sớm để có thể có biện pháp hỗ trợ, tham vấn và trị liệu kịp thời, cả cho bản thân trẻ lẫn cho gia đình của trẻ.

Qua thời gian gần 8 năm hoạt động thực tế, Trăng Non đã làm việc với nhiều thân chủ gặp các vấn đề tâm lý phức tạp như:
- Các rối loạn phát triển ở trẻ nhỏ: tự kỷ, chậm phát triển ngôn ngữ, tăng động – giảm chú ý (ADHD), trẻ gặp khó khăn trong học tập…
- Các rối nhiễu tâm lý ở trẻ em như: đái dầm, ngỗ nghịch, ăn cắp, nói dối, sợ đi học, ám ảnh, lo âu, phạm kỷ luật ở trường, xung đột với bố mẹ…
- Các vấn đề tâm lý ở tuổi vị thành niên: kém thích nghi với học tập, khó khăn trong quan hệ xã hội, trầm cảm, lo âu, ám ảnh, ám ảnh sợ, nghiện ngập (ma túy, internet và game) …

Trụ sở chi hội Trăng Non chủ yếu được sử dụng với mục đích làm tâm lý trị liệu cho các trẻ em và thiếu niên có vấn đề khó khăn về tâm lý; bao gồm một phòng trò chơi trị liệu cho trẻ nhỏ và một phòng dành vừa để tiếp phụ huynh, vừa dành cho trị liệu các thân chủ vị thành niên và gia đình.

Trăng Non còn tham gia giúp huấn luyện, đào tạo những sinh viên cũng như các cán bộ đang làm việc và ứng dụng chuyên ngành tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu thông qua đào tạo lý thuyết tại Đại học Văn Hiến, Hội KH Tâm lý Giáo dục Tp.HCM và các cơ sở thực hành khác, đồng thời Trăng Non cũng là cơ sở giúp đào tạo thực hành và kiểm huấn cho các sinh viên và cán bộ thực hành tự nguyện tham gia Trăng Non.

Tâm lý trị liệu là một tiến trình dựa trên việc thiết lập mối quan hệ có tính hỗ trợ giữa nhà trị liệu và thân chủ có nhu cầu hỗ trợ về tâm lý (một đứa trẻ, một thiếu niên hoặc một gia đình) – thông qua mối quan hệ và những tương tác với nhà trị liệu, các thân chủ sẽ có điều kiện để giải bày cảm xúc, thấu hiều bản thân, học tập những kỹ năng mới hoặc định hình những cách nhìn mới về cuộc sống… từ đó giúp cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của thân chủ.

Tâm niệm của chúng tôi là “Lấy sự học và làm tâm lý để giúp nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần cho bản thân và cho người khác”
Cũng từ cơ sở nhỏ bé này đã chắp cánh cho những thành viên trở nên trưởng thành hơn trong nghề nghiệp và tiếp tục bay cao, đi xa hơn...