Thứ Tư, 15 tháng 9, 2021



 


Giữa hai chủ thể là một khoảng "trung gian"

(In-Between Space; Transitional Space; Intermediary Space)

- Một khoảng mà mỗi bên

vừa xem như là "ME"

vừa như là "Not-ME"...

 

Ở khoảng đó,

từ thuở sơ khai nhất khi đứa bé bắt đầu tách mẹ,

hiện ra những thứ cần thiết

như "cái gối ghiền" và "con gấu Teddy" ...

Rồi sau đó, khi đứa bé ấy lớn lên,

lại là chỗ cho những thứ khác

giao thoa giữa các kiểu thực tại

"inner" và "outer"...

 

Lần mò Donald Winnicott một hồi

lại chạm tới cái gọi là

"Das Zwischenmenschliche" của Martin Buber

- Địa hạt của những mối

quan hệ liên cá nhân, giữa người với người...

Kiểu "I-it" (Tôi-và-Nó)

thì con người xem người khác là "khách thể", là "đối tượng";

kiểu "I-Thou" (Tôi-và-Bạn)

thì con người xem nhau như những chủ thể

và làm nên những liên hệ có ý nghĩa...

Rồi lại chạm tới Philippe Caillé và Yveline Rey, để thấy

trong khoảng giữa đó có thể

là "sàn diễn" cho

những "vật thểtrôi nổi"

(floating objects)...


Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

Quan điểm đa chiều về nghiện game online




Tham luận Hội thảo về Nghiện Game Online tại Đồng Nai – Ngày 6-8-2009

BS. NGUYỄN MINH TIẾN

Thực trạng nghiện game online (trò chơi trực tuyến trên mạng internet) ở trẻ em và vị thành niên đang gia tăng trong những năm gần đây và đang ngày càng nhận được sự quan tâm của công chúng nói chung cũng như của các nhà chuyên môn thuộc các lĩnh vực y khoa, giáo dục, tâm lý học, xã hội học, an ninh, pháp luật...

Bài viết này – trong khuôn khổ có hạn về thời gian của hội thảo – chỉ mạn phép trình bày một quan điểm về tình trạng nghiện game online (chủ yếu ở trẻ em và người trẻ tuổi) và từ đó đề xuất một số cách thức tiếp cận và hướng trị liệu cho những người bị nghiện game.

Internet và game online

Từ khi được đưa vào sử dụng rộng rãi trên thế giới, mạng internet đã ngày càng trở nên một môi trường thông tin và liên kết quan trọng giữa người với người. Internet ngày nay đã trở thành một môi trường khá thân thuộc với rất nhiều người mà thông qua đó họ có thể làm việc, thông tin, giao lưu và thậm chí thư giãn, giải trí nữa. Nếu như cách đây hơn 10 năm thôi, những người có thể dành thời gian nhàn rỗi để vui chơi hoặc giải trí trên mạng chủ yếu là những người làm việc trong lĩnh vực khoa học, công nghệ thông tin, thì ngày nay chuyện “lướt net” đã trở nên chuyện thường ngày đối với rất nhiều người.

Internet mang lại nhiều lợi ích cho con người trên cả hai phương diện “làm việc” và “vui chơi” (work and play). Xét trên khía cạnh “làm việc”, người ta vào internet để cung cấp và thu nhận thông tin, trao đổi ý kiến, gửi thư, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, giới thiệu bản thân hoặc các cơ quan, tổ chức vv... Còn trên khía cạnh vui chơi, giải trí, người ta có thể tìm thấy những nguồn vui thú trên internet thông qua các trò chơi trực tuyến, tán gẫu, tìm bạn, xem phim, nghe nhạc vv...

Cả hai khía cạnh “làm việc” và “vui chơi”, tuy khác biệt về tính chất và mục đích khi được mô tả như trên, nhưng cả hai đều có thể mang lại những nguồn kích thích khá giống nhau cho người sử dụng: đó là tính thách thức và sự tưởng thưởng. Tính thách thức thể hiện thông qua việc người sử dụng internet (dù để “làm việc” hoặc “vui chơi”) đều phải nâng cao dần hiệu suất của bản thân, khắc phục các trở ngại và đạt đến những yêu cầu, mục tiêu cần đòi hỏi. Sự tưởng thưởng thể hiện bằng những niềm vui, niềm tự hào, sự phấn khích hoặc thư giãn sau khi người sử dụng đạt đến mục tiêu mong muốn. Và internet, cũng giống như môi trường sống thực tế thường ngày, hoàn toàn có thể mang lại cho người sử dụng những sự thách thức và tưởng thưởng tương tự như nhau. Cũng như trong cuộc sống thực tế, hai khía cạnh “làm việc” và “vui chơi” đôi lúc hòa quyện vào như một thực thể “2 trong 1” và việc xác định ranh giới giữa đâu là “làm việc”, đâu là “vui chơi” đôi khi trở nên khó khăn. Chúng ta vẫn thường thấy những trẻ nhỏ rất toàn tâm và nghiêm túc khi thực hiện những hoạt động chơi và ngược lại có những người lớn chỉ có thể tìm thấy những niềm vui thú thông qua làm việc. Vậy đâu là “chơi”, đâu là “làm”? Đâu là “thực”, đâu là “ảo”?

Hai khía cạnh ‘‘vui chơi’’ và ‘‘làm việc’’ dù thông qua sử dụng internet hay trong sinh hoạt thường ngày đều là những phần không thể tách rời của hoạt động sống, cả hai đều có thể mang lại những tác động tích cực trên sức khỏe và cuộc sống của con người. Trên cả hai phương diện “làm việc” và “vui chơi”, internet đóng vai trò như một môi trường làm trung gian cho việc giao tiếp giữa người và người: người sử dụng internet “cho thông tin” (thông qua gửi mail, chat, góp ý trên diễn đàn, thể hiện bản thân, ý kiến trên blog, web, thậm chí chơi game trực tuyến với sự tham gia của nhiều người chơi...) rồi lại có thể nhận thông tin theo chiều ngược lại.


Như thế nào là nghiện game?

Không phải tất cả những ai chơi game trực tuyến cũng đều là nghiện game; điều cũng tương tự là không hẳn tất cả những ai chuyên tâm làm việc đều là người có cuộc sống cân bằng, lành mạnh. Nhiều trẻ em và vị thành niên vẫn chơi game nhiều giờ mỗi tuần vẫn có thể giữ được sự cân bằng trong các sinh hoạt học tập cũng như trong các mối quan hệ với người thân trong gia đình và với xã hội xung quanh.

Tình trạng chơi game chỉ có thể được xem là nghiện khi việc sử dụng game/internet đạt đến một thời lượng và một mức độ nhất định nào đó khiến cho đương sự gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong các sinh hoạt học tập, làm việc, giao tiếp và quan hệ xã hội... đồng thời việc chơi game diễn ra vượt quá khả năng kiểm soát của bản thân hoặc được thực hiện như một nhu cầu thôi thúc khó cưỡng lại được.

Các nghiên cứu cho thấy có khoảng 10-15% người chơi game hội đủ các tiêu chí chẩn đoán là nghiện (addiction) theo Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO). Nghiện game/internet đã thực sự là một dạng rối loạn mới xuất hiện tuy rằng loại rối loạn này vẫn chưa được chính thức xếp loại trong các hệ thống tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tật của thế giới. Nghiện game cũng có bản chất tương tự giống như các tình trạng nghiện khác như nghiện rượu, nghiện thuốc lá, nghiện ma túy, nghiện bài bạc, nghiện tình dục và nghiện... ăn (chứng phàm ăn hoặc háu ăn do căn nguyên tâm lý - bulimia). Chúng có chung một số tính chất đặc trưng về diễn tiến từ chỗ sử dụng, chuyển sang lạm dụng và sau cùng là nghiện; đồng thời tác nhân gây nghiện (ở đây là game/internet) cũng làm cho đương sự có tình trạng ‘‘dung nạp’’, ‘‘lệ thuộc’’ và khi không sử dụng có thể xuất hiện ‘‘hội chứng cai’’.

Trong khi các chứng nghiện rượu, thuốc lá, ma túy... có tình trạng lệ thuộc các hóa chất có nguồn gốc ngoại sinh (được đưa vào cơ thể từ bên ngoài), thì những tình trạng nghiện bài bạc, tình dục hoặc nghiện game online có thể liên quan đến tác động của các hóa chất có nguồn gốc nội sinh (do cơ thể tự tạo): các nghiên cứu cho thấy có vai trò của dopamine và các endorphin xuất hiện trong não bộ khi đương sự tiếp xúc với tác nhân và hoàn cảnh gây nghiện. Do vậy, xét trên bình diện sinh học, nghiện game/internet cũng có thể liên quan đến tình trạng lệ thuộc các hóa chất nội sinh.

Các biểu hiện ở người nghiện game/internet cũng cho thấy một sự suy giảm khả năng tự chăm sóc bản thân, khó kiểm soát các xung động và đòi hỏi của bản thân, rối loạn các nhịp điệu sinh hoạt thường ngày (ăn uống, ngủ nghỉ...), giảm hoặc mất hẳn khả năng giao tiếp và quan hệ với những người xung quanh trong cuộc sống thực tế và phần lớn thời gian chủ yếu được dành cho việc sử dụng game/internet... Trên bình diện tâm lý – xã hội, người nghiện game/internet (cũng giống như nghiện bài bạc và tình dục) có xu hướng ‘‘ám ảnh’’ (tâm trí bị choáng chỗ và lấp đầy bởi các huyễn tưởng về game) và ‘‘cưỡng bức’’ (có một sự thôi thúc, bắt buộc thực hiện việc sử dụng game/internet). Game và internet dần dần thế chỗ cho các quan hệ xã hội và các nguồn vui khác trong đời sống; đây là điều quan trọng để xác định một người có nghiện game/internet hay không vì người chơi game không nghiện vẫn có thể tìm thấy những nguồn vui từ những công việc và các mối quan hệ từ trong cuộc sống thực tế. Ở người nghiện, cái ‘‘ảo’’ thay thế cho cái ‘‘thực’’, hay nói cách khác ‘‘ảo’’ chính là ‘‘thực’’.

Vì sao game gây nghiện?

Có nhiều yếu tố góp phần tạo nên tình trạng nghiện ở những người chơi game online. Trước tiên phải kể đến những yếu tố từ bản thân những thiết kế trò chơi trực tuyến. Trong cách thiết kế game của những nhà sản xuất cũng chứa đựng những tiềm năng gây nghiện. Ngay cả những video game ban đầu cũng được thiết kế để người chơi phải càng lúc càng cố gắng hơn để đạt kết quả cao hơn (bằng cách đặt những điểm số cao để làm hạn mức phải vượt qua – High Scores) hoặc chơi để đạt đến kết quả sau cùng (beating the game) vd. trò chơi Mario giải cứu công chúa...

Video game và game online còn có tính năng giúp người chơi thực hiện ‘‘sắm vai’’ (role-playing) nghĩa là người chơi tự tạo nên những ‘‘nhân vật’’ rồi hóa thân mình trở nên nhân vật ấy, thậm chí có thể hình thành nên một sự ‘‘gắn bó tình cảm’’ giữa người chơi và nhân vật do chính mình dựng lên rồi hóa thân vào, rồi chính sự gắn bó này khiến người chơi khó có thể dừng cuộc chơi hoặc khó cưỡng lại sự thôi thúc quay trở lại cuộc chơi lần sau. Tính năng ‘‘sắm vai’’ cũng có thể được thực hiện thông qua các hoạt động khác (không phải game) khi sử dụng internet chẳng hạn như tán gẫu (chat), kết bạn, hẹn hò, đăng ký thành viên tham gia một diễn đàn, tạo blog cá nhân... Tính năng sắm vai đôi khi cho phép người sử dụng game/internet tạo nên những hình ảnh về bản thân theo cách mới hơn hoặc được làm cho khác biệt đi – điều này khó có thể thực hiện được khi bản thân họ trực tiếp tiếp xúc và giao tiếp với những con người thật trong đời sống thực tế.

Tính chất mạo hiểm, kích thích sự khám phá (discovery) ở một số trò chơi cũng mang tính hấp dẫn cao. Sự thú vị do trò chơi đã dẫn người chơi đi sâu vào khám phá những thế giới đôi khi hoang đường và phi thực tế cũng giúp lôi cuốn người chơi gắn bó với game.

Và tính chất sau cùng của game online (và nói chung là của internet) là sự hình thành những mối quan hệ (relationships) trong một ‘‘cộng đồng cư dân trên mạng’’ có cùng mối quan tâm và luôn sẵn lòng chia sẻ (dù thuận ý hay nghịch ý, dù hợp tác hay đối kháng). Riêng trong game online đó chính là tập hợp của những ‘‘bạn chơi’’, nhất là trong các ‘‘Trò chơi sắm vai trực tuyến có đông người chơi tập thể’’ (MMORPGs: Massive Multiplayer Online Role-Playing Games), người chơi vừa có thể thiết lập các mối quan hệ với bạn chơi, lại vừa khó có thể ngừng hoặc từ chối trở lại cuộc chơi, vì thiết kế của các MMORPGs không bao giờ khiến người chơi có thể đạt đến ‘‘chiến thắng chung cuộc’’.

Sự tiến bộ trong công nghệ thông tin ngày càng giúp hoàn chỉnh các thiết kế game. Các trò chơi trở nên tinh vi hơn, gia tăng độ phức tạp về tính năng, cấu hình và độ thách thức trong nội dung chơi. Thế giới ‘‘ảo’’ càng lúc càng trở nên ‘‘thật’’ hơn. Thậm chí, người chơi có khi phải chi ra những khoản tiền thật để tạo nên những tài khoản ảo ở trên mạng. Tất cả những cải tiến đó càng làm gia tăng thêm hấp lực của game online: tức là gia tăng độ thách thức và mức độ tưởng thưởng cho người chơi game. Về việc này, game online rất giống với một sòng bạc (casino); cả hai đều được thiết kế sao cho người chơi chỉ có thể đạt được những ‘‘thắng lợi’’ nho nhỏ để giữ cho họ có thể còn tiếp tục chơi, nhưng ‘‘thắng lợi’’ sau cùng có khi chẳng bao giờ đạt đến.

Vì sao người chơi game bị nghiện?

Như trên đã nói, sự hưng phấn do theo đuổi các thách thức cũng như sự tưởng thưởng sau khi đạt đến các mục tiêu – cả cho ‘‘làm việc’’ lẫn để ‘‘vui chơi’’ khi sử dụng internet – đều là những tác nhân tăng cường giúp củng cố thêm hành vi sử dụng internet. Con người luôn có khuynh hướng tìm kiếm các kích thích từ môi trường xung quanh hoặc từ nơi cơ thể của mình để đạt được những sự ‘‘tưởng thưởng’’ mà mình mong muốn có. Khi gặp trở ngại trong việc tìm kiếm tưởng thưởng ở những nguồn kích thích thường ngày (công việc, học tập, vui chơi, quan hệ với người thân...), người ta có thể quay sang tìm kiếm các tưởng thưởng từ những nguồn kích thích khác nếu nguồn kích thích này là ‘‘sẵn có’’, những nguồn kích thích này có thể là các hóa chất gây nghiện hoặc các thực tại ảo (có thể bên trong: huyễn tưởng, mơ mộng hoặc có thể bên ngoài: bài bạc, tình dục, internet...)

Trẻ em và người vị thành niên là những con người đang trong tiến trình xây dựng nhân cách và định hình bản sắc. Ngoài các yếu tố sinh học (tình trạng lệ thuộc các hóa chất nội sinh) đã nêu phần trên, các nhà nghiên cứu còn thấy có những yếu tố tâm lý góp phần gây nên tình trạng nghiện ở người chơi game. Một điều được quan sát thấy rõ là có một số người dễ có khả năng trở nên nghiện cao hơn những người khác. Những trẻ em có xu hướng dễ chán nản, có mối quan hệ không tốt với những người thân trong gia đình, những trẻ cảm thấy bị thất bại trong việc học, bị ‘‘ruồng bỏ’’ trong trường lớp, hoặc những trẻ có xu hướng đi tìm kiếm những kích thích giác quan (thích cảm giác lạ) là những trẻ dễ bị lôi cuốn vào việc chơi game và nghiện game, vì chỉ có thế mới giúp trẻ khỏa lấp được cảm giác trống vắng và thỏa mãn được những nhu cầu mà trẻ không thể đạt được qua những hoạt động khác.

Một trẻ nghiện game online cũng có thể đồng thời ‘‘nghiện’’ các hoạt động khác trên mạng internet: tán gẫu, hẹn hò, xem hình ảnh và phim khiêu dâm (có thể kèm theo huyễn tưởng tính dục và thủ dâm), lang thang trên các diễn đàn hoặc chỉnh chu các trang blog cá nhân... Trẻ tìm thấy ở internet (bao gồm cả hoạt động chơi game online) những cơ hội để trẻ có thể ‘‘thành công’’, được chấp nhận trong mối quan hệ với các bạn khác trong cư dân mạng và giải quyết những nhu cầu cơ bản của lứa tuổi mà môi trường thực tế trẻ không thực hiện được, đồng thời trẻ cũng tìm thấy ở internet như một môi trường rất lý tưởng để xây dựng và thể nghiệm những hình ảnh của bản thân. Việc này rất cần thiết trong tiến trình hình thành nhân cách và định hình bản sắc cá nhân ở tất cả người vị thành niên, nhưng do những trở ngại trong cuộc sống thực tế, trẻ đã không thể hoàn tất việc này thông qua các công việc và các mối quan hệ trong đời sống thực, mà phải thực hiện trên một không gian ảo là internet. Trong không gian ảo đó trẻ có thể ‘‘giấu mình’’ dưới một hình ảnh khác, và tự do thể hiện những tính cách mà trẻ muốn người khác thấy nơi bản thân mình – một điều khó thực hiện trong cuộc sống thực tế. Những ‘‘thành quả’’ đạt được này có giá trị như những sự tưởng thưởng mà trẻ nhận được từ việc sử dụng game và internet.

Việc gắn bản thân mình vào game/internet có thể tạm thời giúp bình ổn bản thân trẻ trước các khó khăn trong cuộc sống, đồng thời cũng giúp bình ổn các xung đột trong quan hệ gia đình (nếu có) – Một số phụ huynh (vô tình hoặc cố ý) đôi khi cũng ‘‘thỏa hiệp’’ với khuynh hướng này bằng cách thừa nhận hoặc thương lượng với trẻ để dành cho trẻ một khoảng thời gian nhất định trong ngày được chơi game và sử dụng internet. Xét vấn đề theo cách này thì triệu chứng nghiện game/internet có thể có vai trò ‘‘tích cực’’ trong nhất thời cho cá nhân trẻ cũng như cho gia đình của trẻ. Tuy nhiên, một khi việc sử dụng game/internet bị lạm dụng và trở thành một thói quen có tính kiên định, tác động tiêu cực của nó sẽ được phát huy. Khi đó, trẻ sẽ ngày càng cách xa với thế giới thực tế hơn, kém thích nghi hơn, các chức năng sống của trẻ và quan hệ trong gia đình sẽ càng bị suy giảm, thậm chí lạm dụng game/internet còn gây ra các tác hại trên sức khỏe thể chất và tinh thần của trẻ, nghiêm trọng hơn có thể dẫn trẻ đến tình trạng bạo lực và phạm pháp.

Quan điểm chung về cách tiếp cận và trị liệu

Nghiện nói chung và nghiện game/internet nói riêng là những rối loạn phức tạp và đa căn nguyên. Không thể quy kết nguyên nhân của nghiện cho một hoặc một vài yếu tố đơn lẻ. Chính vì thế cần có những cách thức tiếp cận đa chiều, đa bình diện cả trong việc tìm hiểu đánh giá người nghiện lẫn trong quá trình chăm sóc và trị liệu.

Cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa hai bình diện tiếp cận: (1) Giải quyết vấn nạn nghiện game online trên bình diện xã hội, vĩ mô và (2) Tiếp cận trị liệu những trường hợp nghiện game online trên bình diện cá nhân và gia đình.

Bình diện tiếp cận thứ nhất có liên quan đến trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý. Trong góc độ những người làm chuyên môn về sức khỏe tâm thần và tâm lý trị liệu, chúng tôi xin nói đến bình diện tiếp cận thứ hai.

Giống như các tình trạng nghiện nói chung, người nghiện game/internet nói chung thường lẩn tránh các vấn đề khó khăn trong cuộc sống thực tế. Việc trị liệu một người nghiện ngoài việc hạn chế hoặc tiến đến ngừng hẳn việc việc sử dụng game/internet còn phải thiết lập mục tiêu giúp họ tự tin hơn để đương đầu với các khó khăn trong thực tế. Đã có nhiều tác giả xây dựng nên những phương thức trị liệu từ việc dùng thuốc (thuốc chống trầm cảm nhóm SSRI hoặc naltrexone), cho đến liệu pháp nhận thức – hành vi (CBT). Ngoài ra việc xây dựng những nhóm hỗ trợ (support group) và áp dụng liệu pháp gia đình (family therapy) là những việc làm rất thiết yếu trong việc giúp người nghiện phục hồi và gia tăng khả năng hội nhập trở lại vào đời sống thực tế. Việc đơn thuần cách ly hoặc ngăn cản người nghiện tiếp xúc trở lại với tác nhân và hoàn cảnh gây nghiện thường không đủ hiệu quả để ngăn ngừa sự tái nghiện.

Tiên lượng cho khả năng phục hồi tất nhiên còn tùy thuộc nhiều vào mức độ sẵn lòng muốn thay đổi của người nghiện, bản chất các mối quan hệ trong gia đình, những vấn đề khó khăn vốn có trong đời sống, các vấn đề tâm lý và rối loạn tâm thần kèm theo, mức độ của tình trạng kém thích nghi, thời gian và mức độ nghiện nhiều hay ít, tình trạng sẵn có của game online/internet cũng như khả năng sẵn có của các dịch vụ hỗ trợ và trị liệu trong cộng đồng.

Tiếp cận đa bình diện đòi hỏi phải có những ê-kíp trị liệu liên ngành, bao gồm các ngành y khoa chung, tâm thần, tâm lý, giáo dục, công tác xã hội, có khi phối hợp với cả các tổ chức, đoàn thể xã hội, những nhóm hỗ trợ người nghiện và gia đình của họ... Các cơ cấu liên ngành như thế có thể được tổ chức trong những trung tâm tâm trị liệu chuyên biệt hoặc được lồng ghép vào trong các cơ sở chuyên môn sẵn có nếu nguồn nhân lực và tài lực có giới hạn.

Nghiện luôn luôn là những rối loạn phức tạp và cần nhiều thời gian để hồi phục. Trong quá trình hồi phục ấy sự tái phát rất thường hay xảy ra. Triệu chứng nghiện, tuy gây ra rất nhiều tác động tiêu cực cho đời sống của người nghiện và gia đình của họ, nhưng ta vẫn có thể xem xét nó dưới những khía cạnh có tính cực hơn: Triệu chứng nghiện giúp nhất thời bình ổn những khó khăn trong cuộc sống của người nghiện và gia đình của họ, đồng thời đó cũng là cơ hội để người nghiện và gia đình họ xem xét lại cuộc sống của họ và học tập những kỹ năng mới.

Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2017

Nghệ thuật giúp làm lành những chấn thương về cảm xúc

Nguyên tác: Michaela Herr - Helping Emotional Trauma Through Art
http://learnnow.org/topics/arts/helping-emotional-trauma-through-art
Người dịch: Nguyễn Minh Tiến

Michaela Herr, chuyên viên tâm lý phát triển tại ĐH Brooklyn, thành phố New York, Hoa Kỳ, đã mô tả một số trường hợp trẻ em bị tổn thương tâm lý mà cô đã làm việc như một nhà trị liệu nghệ thuật (art therapist).



Ca 1: Chuyển từ hung tính sang niềm vui

Một bà mẹ dẫn đứa con trai 7 tuổi đến nhà trị liệu nghệ thuật vì những hành vi hung tính của đứa trẻ. Việc gần nhất mà trẻ làm là đã dìm chết con mèo nuôi trong chiếc bồn tắm. Trẻ tư duy nhanh, nói nhiều chuyện chẳng biết là thực hay là trong tâm trí như đang mơ của mình. Cậu nói về những nỗi sợ của mình và về cách mà cậu đánh đập người khác khi cậu nổi điên lên. Nhà trị liệu nói với cậu rằng nổi điên cũng được, nhưng có nhiều cách khác để bày tỏ sự tức giận thay vì là sử dụng bạo lực. Cậu ngạc nhiên hỏi "Có à?". Nhà trị liệu đưa cho cậu bút vẽ và một tờ giấy, bảo cậu hãy vẽ ra cơn giận của mình. Khi đó, cậu trở nên rất tập trung và cảm xúc đang mạnh mẽ trở nên dịu lại. Sau vài phút, cậu ngưng vẽ, nhìn nhà trị liệu rồi nói "Cháu là một họa sĩ". Gương mặt cậu có vẻ say sưa và ngạc nhiên về những gì mình có thể làm được. Niềm hạnh phúc như đang lan truyền...

Ca 2: Chuyển từ lo âu sang điềm tĩnh

Một bé trai 6 tuổi từng chứng kiến những hành vi bạo lực giữa cha mẹ ở nhà và bị bạn bè bắt nạt trong trường học. Cậu rất ngưỡng mộ những nhân vật siêu anh hùng và thường mặc chiếc áo thun có in hình Captain America. Chiếc áo như một nguồn cảm hứng tạo nên chiếc khiên che chắn cho cậu. Nhà trị liệu khuyến khích cậu dùng chiếc khiên ấy bất cứ khi nào cậu cảm thấy cần được bảo vệ, đặc biệt khi bạn bè ở trường nói những lời gây tổn thương cho cậu. Rồi nhà trị liệu bảo rằng chiếc khiên phải được để lại ở nhà, nhưng cậu có thể tưởng tượng rằng mình vẫn mang theo chiếc khiên ấy đến trường như một quyền năng vô hình. Cậu bé đã chỉnh lại dáng ngồi và mỉm cười. Việc này dường như đã làm cho cậu thêm tự tin. Cậu chưa bao giờ ngồi thẳng như thế...

Ca 3: Chuyển từ sợ hãi sang tự kiểm soát

Một trẻ trai 11 tuổi được nhiều lần gửi vào cơ sở nuôi dưỡng vì bị cha mẹ bỏ bê ngay từ lúc cậu mới 3 tuổi. Cậu được gặp nhà trị liệu nghệ thuật theo định kỳ. Do sợ những sản phẩm sáng tạo nghệ thuật sẽ bị hỏng khi mang về nhà nên cậu đã để tất cả chúng ở lại phòng trị liệu. Nhà trị liệu đã để cậu viết ra khoảng thời gian mà cậu cảm nhận về bản thân như là rác rưởi hoặc vật phế thải. Cậu yêu cầu nhà trị liệu không nhìn cậu khi cậu viết. Nhà trị liệu đã nhắm mắt lại và quay mặt đi nơi khác. Sau khoảng mười phút, nhà trị liệu yêu cầu cậu xé mảnh giấy và bỏ nó vào chiếc máy xay. Cậu đã mỉm cười khi ấn nút chiếc máy để hủy những mảnh giấy kia đi. Rồi những máy giấy nát vụn ấy được trút đổ ra, nhà trị liệu yêu cầu trẻ hãy dùng chúng để tạo nên một thứ gì đó mới hơn. Trẻ đã tạo nên "Bức Tường" - một thứ mà cậu mô tả rằng đó là cách có thể kiểm soát được ai đi vào và ai đi ra. Bức tường đã đóng vai trò như một tấm khiên giống như trường hợp thứ 2 nêu trên. Cả hai đứa trẻ đã sáng tạo nên một mảnh nghệ thuật mang ý nghĩa ẩn dụ nhằm bảo vệ mình trước những công kích từ môi trường sống xung quanh...

Sự bình phục thực sự bắt đầu từ trong những khoảnh khắc lắng đọng ấy. Nghệ thuật tạo lối mở cho sự giải bày, bàn luận và đương đầu với các tình huống gây stress trong cuộc sống. Nghệ thuật tạo không gian an toàn cho phép đứa trẻ xử lý những xúc cảm mà khi nói ra bằng lời thì lại có tính chất quá thách thức. Trẻ có thể khám phá ra những cảm xúc mới lạ, khám phá được tiềm năng sáng tạo của mình, trẻ được lắng nghe, được hiểu, và trẻ cũng có thể tìm thấy lại được niềm vui và sự hy vọng...


Những bức họa có thể biểu lộ điều được cảm thấy khi phải sống cùng trầm cảm

Nguyên tác: Olympia Vilagrán - Paintings That Unveil What Depression Feels Like - 29/8/2016
Nguồn: https://culturacolectiva.com/generales/sad-paintings-that-show-what-it-feels-like-to-live-with-depression/
Người dịch: Nguyễn Minh Tiến


Chiếc bóng lờ mờ của sự sáng tạo được hình thành nên bởi sự điên loạn, bởi một vực sâu của chứng trầm cảm, và bởi lo âu. Nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là những họa sĩ, đã được chạm đến khoảng đen tối này, khi đã mắc phải những rối loạn tâm thần và cảm xúc trong suốt quãng đời làm nghề của họ.
Họ đã sống trong một cơn ác mộng không dứt, nơi mà những dày vò, lú lẫn và nhiễu loạn đã được làm cho trở thành bất tử bên trong những bức họa. Những hình ảnh ma quỷ bên trong ấy đã trở thành nhân vật chính, không chỉ trong tác phẩm nghệ thuật của họ mà còn cả trong chính cuộc sống của họ nữa. Không phải tất cả nghệ sĩ đều mắc phải những chứng ảo giác, rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt hoặc những cơn lo âu, nhưng một phần đông trong số họ đã đặc biệt biểu lộ qua từng nét cọ những gì mà tâm trí họ không còn có thể chứa đựng được nữa.

Trong thực tế, một số những nghệ sĩ này đã xem căn bệnh của họ như một phần của nguồn cảm hứng để chuyển những bức họa của họ trở thành những công trình nghệ thuật độc đáo không gì sánh bằng. Edvard Munch đã chia sẻ một niềm tin tương tự, “Nỗi lo sợ cuộc sống là thứ cần thiết đối với tôi, cũng như căn bệnh của tôi vậy. Nếu không lo, không bệnh, tôi cũng giống như một con tàu không có bánh lái. Nghệ thuật của tôi dựa trên những phản ảnh về sự khác biệt (của tôi) với những người khác. Những nỗi đau khổ của tôi là một phần của chính tôi và của nghệ thuật của tôi. Chúng không thể phân tách khỏi chính tôi, và nếu những nỗi khổ ấy mất đi thì nghệ thuật của tôi cũng sẽ bị hủy hoại. Tôi muốn giữ lấy những nỗi đau khổ này”. Việc chữa lành những tâm trí bất an và mất quân bình này đồng nghĩa với việc dập tắt đi sự thành công như những nghệ sĩ của họ.

Tác phẩm của Mark Rothko – "Đen trong Đỏ thẫm" (Black in Deep Red)

Cuộc sống của thiên tài này đầy dẫy những điều mâu thuẫn và phi lý. Rothko là một nghệ sĩ mà chứng trầm cảm của ông cũng tăng dần cùng với tiếng tăm, đến mức mà nó đã dẫn ông đến sự tự sát. Dù chết một cách bi thảm, Rothko vẫn được biết đến, ngay từ khi ông khởi nghiệp, như một họa sĩ theo trường phái Biểu hiện và Trừu tượng (expressionist and abstract artist) không ai sánh bằng. Nhiều người chỉ ra thời điểm khởi đầu chứng trầm cảm của ông là lúc ông ly hôn và lần kết hôn thứ hai, thay vì nâng ông lên khỏi hoàn cảnh chao đảo này, thì lại dìm ông sâu hơn vào chứng trầm cảm.

Một số ít công trình chưa hoàn tất của ông, được biết dưới tên gọi chung là Multiforms, được ông vẽ trong thời gian 1947-1949, đã xuất hiện trước những tác phẩm hoàn chỉnh hơn, những tác phẩm mà nhờ đó ông được tán dương rất nhiều. Mặc dù việc xử lý màu sắc của ông có độ biến thiên khá rộng, ông vẫn thường sử dụng những sắc màu sôi nổi và gây cảm xúc mạnh, rồi khi nghề nghiệp của ông được chấp cánh, bay cao, bay xa hơn, những tác phẩm về sau của ông càng bị chìm vào khoảng tối đen sâu thẳm không đáy. Qua vô số những tác phẩm trừu tượng của ông, ông bắt đầu tách mình rời khỏi thế giới nghệ thuật và rời khỏi cả chính cuộc sống.

Dường như rằng khuynh hướng biểu hiện này đã cố đi tìm cho được sự thinh lặng, mà có lẽ diễn ra mãi mãi, như những hệ quả của trạng thái tâm bệnh lúc ấy đã đạt đến một mức độ đáng kể. Không có sự quay đầu trở lại của Rothko và những tác phẩm của ông chỉ diễn tả về những bi kịch, những niềm hân hoan, đam mê ngây ngất và cả những tai ương định mệnh. Chính trong khoảng thời gian giữa thập niên 1950s là lúc những tác phẩm của ông trở nên đen tối hơn và những màu xám, xanh, đen, nâu đã hiện diện trong hầu hết các tác phẩm của ông. Trong sự tối tăm sâu thẳm ấy, những công trình của người họa sĩ này trở nên đơn sắc, như một lời từ biệt sau cùng của ông trước khi từ giã cõi trần.

Tác phẩm của Joan Miró – "Lễ hội của những chú hề" (The Harlequin’s Carnival)

Miró được biết là đã mắc chứng trầm cảm thường xuyên, vì thế ông bị lôi kéo vào một cuộc sống đi kèm với tâm bệnh, sự giao động về khí sắc với những khoảng thời gian thành công trong sáng tạo xen lẫn với những lúc trơ lì hoạt động không thể cưỡng lại được. Những tác phẩm của họa sĩ này là biểu tượng cho chứng trầm cảm của ông. Sự nhận thức sắc sảo của ông giúp phân khúc thực tại rồi nắm bắt nó đưa vào bên trong một bức họa. Khi từ lúc khởi nghiệp, ông đã mắc phải tình trạng lo âu và nghi ngại, và điều này lại bị dẫn dắt bởi tính cách hay bùng nổ của ông. Ngay từ lúc trẻ, ông đã trải qua những tình huống khó khăn khiến ông ưu sầu và thất vọng cùng cực, chẳng hạn khi ông bị cha ép buộc phải từ bỏ nghệ thuật và phải làm việc trong một hiệu thuốc.

Những giai đoạn sáng tạo nghệ thuật của Miró đã được xác định rõ. Chúng ta có thể lần ra được những thời khoảng sáng tạo hết sức dồi dào của ông, khi ông có thể vẽ đến 130 bức họa trong vòng chưa đầy 2 năm, cũng như những thời khoảng ông gần như bị bại liệt bởi chứng trầm cảm. Thật ấn tượng khi nhìn thấy những tác phẩm của Miró đã chuyển tải những cảm xúc của ông như thế nào, những bức họa của ông trong nhiều trường hợp đã nhuốm màu bởi cả một vực sâu của sự sầu não.

Tác phẩm của Jackson Pollock – Blue Poles

Jackson Pollock đã biến sự hỗn độn thành ra một hình thái nghệ thuật. Một nghệ sĩ phi thường với chứng nghiện rượu thâm căn, ông đã chết trong một tai nạn xe hơi bi thảm chỉ cách nhà ông có vài mét. Ông là một họa sĩ tuyệt vời, người đã sử dụng một kỹ thuật mà chưa ai trải qua trước đó, tức khoảng giữa thập niên 1940s. Ông đã đảo lộn thế giới nghệ thuật bằng cách vẽ ra những tác phẩm theo cách phản lại truyền thống (anti-traditional works) thông qua đó phản ảnh trạng thái tâm trí bị “xoắn vặn” của ông. Từng giọt sơn, vệt màu của ông đều biểu lộ ra chứng điên loạn ẩn giấu bên trong tất cả chúng ta. Kỹ thuật nhỏ giọt lạ lùng mà Pollock  sử dụng đã chuyển các bức họa của ông thành ra những lời phát biểu mạnh mẽ. Đối với ông, cách duy nhất mà ông có thể tập trung vào công việc là cho phép phần tâm trí vô thức giữ quyền kiểm soát cơ thể và nhân danh ông để thực hiện những nét vẽ. Có lẽ đây chính là lý do giải thích tại sao phong cách của ông có tính chất mạnh mẽ và khó đoán biết, cũng tương tự như kiểu sống mà ông tuân thủ.

Ông có một câu chuyện đầy những điều thống khổ, chứng trầm cảm, nghiện rượu và những thôi thúc không thể kiểm soát được để luôn hành động một cách tự nhiên. Cũng giống như chúng ta không thể biết giọt sơn cuối cùng sẽ rơi xuống chỗ nào khi vẽ, cuộc sống của ông cũng tương tự như thế, không thể biết trước.

Tác phẩm của Paul Gauguin – The Yellow Christ

Những thực nghiệm với màu sắc và nhiều thành tố khác nhau đã giúp người nghệ sĩ theo trường phái “Hậu Ấn tượng” (Post-Impressionist) này trở nên nổi tiếng. Trong khi trên bề mặt, ông sống cuộc đời yên ả cùng với vợ và 5 con, người nghệ sĩ này cũng trải qua những đợt trầm cảm nghiêm trọng khiến ông vài lần thực hiện việc kết liễu đời sống của mình. Những lời đồn đại xoay quanh nỗi thất vọng của ông về trào lưu Ấn tượng (Impressionist), và hậu quả là ông đã tìm kiếm những thể hiện mới và biểu tượng mới nhằm mang lại những ý nghĩa mới cho tác phẩm nghệ thuật của ông. Chán ngán với những nỗi khốn khổ và việc không được thừa nhận, ông quyết định đi sang Haiti. Tại đó, bên cạnh việc vẽ tranh, ông cũng vướng mắc vào một loạt các vấn đề khiến ông phải vào tù. Năm 1903, ông qua đời vì bệnh giang mai và cuộc đời ông bị ghi dấu bởi rượu, cô đơn và một nỗi thất vọng triền miên.

Tác phẩm của Edgar Degas – The Absinthe Drinker

Ít có nghệ sĩ nào thể hiện những điều trái ngược trong tác phẩm của mình như Degas. Do phụ thuộc nhiều vào mẹ từ khi còn nhỏ, cái chết của bà đã ảnh hưởng đến ông một cách sâu sắc. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã quyết định dâng hiến đời mình cho nghệ thuật và chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những nghệ sĩ khác như Gustave Moreau.

Nghệ sĩ theo trường phái Ấn tượng này cũng chịu nhiều ảnh hưởng bởi khiêu vũ, một chủ đề mà chúng ta có thể thấy đi thấy lại trong những tác phẩm ban đầu của ông. Năm tháng trôi qua, công trình của ông trở nên phức tạp hơn và bị ảnh hưởng bởi hàng loạt những vấn đề cá nhân luôn ám ảnh ông, chẳng hạn sự bất ổn về kinh tế, cái chết của cha cùng với thanh danh không đạt được nhiều cho đến thời gian ấy.

Không gì gây nên tổn thương cho người nghệ sĩ nhiều bằng việc ông bị mất dần thị lực khiến không thể hoàn tất nhiều tác phẩm. Những bức họa của ông phản ảnh một thế giới nội tâm cùng với một cảm nhận méo mó về thực tại. Một số người tin rằng ông bị bệnh tâm thần phân liệt, trong khi một số người khác thì xếp ông vào loại bị trầm cảm nặng.

Tác phẩm của Francisco de Goya – The Witchy Brew

Lý do chính khiến những tác phẩm của Goya trải qua nhiều sự biến đổi đó là do tình trạng rối loạn tâm thần mà ông mắc phải. Mặc dù không có chẩn đoán chính thức nào được thiết lập, người ta vẫn biết rằng ông đã bị những đợt trầm cảm mà việc này đã ngoại hiện ra trong những tranh vẽ của ông.

Những sự kiện thảm họa, những sắc màu đen tối, màu đất và sắc đỏ, những biểu tượng bạo lực, cách phối cảnh phóng túng, những hình người bị biến dạng là một số yếu tố đặc trưng cho tác phẩm của Goya. Ông là một tù nhân của chứng trầm cảm, và kết quả là ông đã vẽ nên những tác phẩm trứ danh và được tán dương bởi những hình ảnh bí ẩn, khó hiểu.

Francisco de Goya thể hiện nhiều giai đoạn của chứng bệnh của mình thông qua những giai đoạn phân chia các phong cách nghệ thuật khác nhau. Ông bắt đầu bằng những bức họa phức tạp đầy ắp ánh sáng và những hình thù trong tranh biểu thị cái nhìn giống trẻ con của người nghệ sĩ. Dần dần với ảnh hưởng đè nặng của chứng trầm cảm, những bức họa của ông chứa đựng những hình ảnh kỳ quái nhằm mở trói cho những cơn khủng hoảng tâm lý mà ông chẳng bao giờ có thể thoát ra được.

Tác phẩm của Edvard Munch – "Tiếng thét" (The Scream)

Có thể phỏng đoán rằng người nghệ sĩ theo trường phái Biểu hiện này đã mắc bệnh tâm thần phân liệt, nhưng trong thực tế đó lại là chứng trầm cảm, căn bệnh được nuôi dưỡng thêm bởi bản tính hướng nội, chứng nghiện rượu và việc chạm trán với cái chết khi ông chứng kiến sự qua đời của mẹ và các chị em gái của mình.

Một trong số những tác phẩm trứ danh nhất của họa sĩ người Na Uy này là The Scream, mà từ đó chúng ta có thể chiết xuất ra những cảm xúc khác nhau vốn vẫn quấy nhiễu tâm trí của ông. Một trạng thái u sầu vượt ngoài tầm kiểm soát, một trạng thái chán chường không thể chịu đựng nỗi và một sự thất vọng được nuôi dưỡng bởi sợ hãi. Mọi cạm bẫy trở thành sống mãi trong các tác phẩm của ông, và cũng giống như chứng trầm cảm đổ chiếc bóng màu xám của nó lên các tác phẩm của ông, nó cũng trở thành nhân tố chính trong tác phẩm của ông.

Tác phẩm của Vincent van Gogh – At Eternity’s Gate

Nghệ sĩ người Hà lan này là một trong những họa sĩ được ái mộ nhất trên thế giới. Cuộc sống cá nhân của ông có nhiều điều gây tranh cãi, khiến đặt ông vào vị trí một trong những họa sĩ có vấn đề nhất. Ông là một người mắc chứng rối loạn hưng - trầm cảm, những ngày tháng của ông bị choáng lấy bởi những ảo giác, những ảo ảnh, và những cơn động kinh. Tình trạng sau khiến cho ông bị lú lẫn đến mức ông bị mắc phải trạng thái quên (amnesia) và chứng loạn thần khiến gây nên những tác động mạnh trên khả năng sáng tác của ông. Sự quyến rũ của người nghệ sĩ này nằm trong những bức họa mà ông đã sáng tác trong những giai đoạn bệnh diễn biến cấp tính trong khi ông đang nằm điều trị tại bệnh viện tâm thần Saint-Rémy.

---------


Cuộc tranh đấu cá nhân của từng người trong số những nghệ sĩ này vẫn tiếp tục vang vọng cho đến ngày hôm nay thông qua những di sản nghệ thuật của họ. Những bức họa ấy, mà nay được treo trong những phòng triển lãm nghệ thuật và viện bảo tàng danh giá nhất trên thế giới, đã làm sống mãi một niềm tin rằng nghệ sĩ là những người nhạy cảm và dễ mắc các rối loạn tâm thần. Bệnh tâm trí dường như sống vai chen vai bên cạnh sự sáng tạo.

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Nguyên tác: Louis Hoffman - Postmodernism and Psychotherapy
http://postmodernpsychology.com/postmodernism-and-psychotherapy/ March 14, 2017

Người dịch: Nguyễn Minh Tiến



Xu hướng hậu hiện đại, trước tiên, có những tác động rõ rệt trên tâm lý học nói chung so với những ảnh hưởng của nó đối với lĩnh vực tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây không phải là để giảm bớt những gì mà xu hướng hậu hiện đại đang làm thay đổi diện mạo của ngành tâm lý trị liệu đương đại. Bài tham luận này trình bày một cái nhìn tổng quan về một số những khuynh hướng hậu hiện đại quan trọng và những liên hệ của chúng đối với lĩnh vực tâm lý trị liệu.

NHỮNG LIỆU PHÁP TÂM LÝ HẬU HIỆN ĐẠI

Những cách thức ảnh hưởng hiển nhiên nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại lên tâm lý trị liệu đó chính là sự phát triển của những định hướng trị liệu rõ ràng mang tính hậu hiện đại. Một số loại liệu pháp có thể được xếp loại vào nhóm này.

Liệu pháp chuyện kể (còn gọi là “liệu pháp trần thuật” – Narrative Therapy) thường được dẫn ra như một loại liệu pháp tinh hoa mang tính hậu hiện đại. Cách tiếp cận trị liệu này xuất hiện trong thời kỳ hậu hiện đại từ một nhận thức luận hậu hiện đại. Nó trộn lẫn thuyết kiến tạo xã hội và thuyết kiến tạo cá nhân để tạo nên một cách thức hiểu biết về con người và về trị liệu. Tuy nhiên, việc được xem là tinh hoa không có nghĩa đó là loại liệu pháp hậu hiện đại duy nhất hoặc tốt nhất. Một số liệu pháp khác cũng có xu hướng hậu hiện đại.

Phân tâm học đương đại (Contemporary Psychoanalysis) – còn được biết với tên gọi “phân tâm học quan hệ” (Relational Psychoanalysis) tự tách mình ra khỏi các cách thức tiếp cận theo kiểu phân tâm thời kỳ đầu (chẳng hạn như trào lưu theo kiểu Freud, thuyết quan hệ đối tượng – Object Relations và tâm lý học bản ngã – Self Psychology) bằng cách trở nên mang tính chất hậu hiện đại rõ rệt hơn (Hoffman, Hoffman, Robison, & Lawrence, 2005). Cách tiếp cận theo xu hướng kiến tạo xã hội (social constructivist) và tiếp cận liên chủ thể (intersubjective) trong phân tâm học được xem là những “biến thể” của phân tâm học đương đại.

Những liệu pháp hiện sinh nhân văn (nhân bản) đã thể hiện tính chất hậu hiện đại ngay cả trước khi thuật ngữ “hậu hiện đại” được biết đến nhiều (Hoffman, 2004). Cả hai cách tiếp cận này đều nhấn mạnh vào tính chủ quan, sự giới hạn trong khả năng hiểu biết của con người và áp dụng nhiều cách thức nhận biết khác nhau.

Vẫn chưa có nhiều những khuynh hướng hậu hiện đại rõ rệt hơn trong tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, hầu hết các khuynh hướng tâm lý trị liệu đều là những biến thể, đang bao hàm và đang thống hợp những ý tưởng hậu hiện đại.

NHỮNG ĐIỀU TRA VÀ NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ TRONG TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Những khuynh hướng mới trong thực hành dựa trên chứng cứ (evidenced-based practice) cũng biểu lộ các chủ đề hậu hiện đại. Tâm lý học, đặc biệt là tâm lý học lâm sàng, đã dành ra nhiều năm để cố gắng trở thành một ngành khoa học chắc chắn (tạm dịch từ chữ “hard science”). Điều này thường liên quan đến việc “tự lừa dối” chính nó để sao cho những nghiên cứu tâm lý phải có tính “khách quan” và “đúng thật”. Những nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu về thần kinh học đã là những điều đứng ra bảo vệ cho trào lưu này. Sau cùng, công việc ấy đã thất bại và thường làm cho ngành tâm lý học càng trông có vẻ ngớ ngẩn.

Trong cố gắng để trở nên một ngành khoa học chắc chắn, tâm lý học đã phát triển nên những trào lưu “trị liệu được xác lập bởi thực nghiệm” (empirically validated treatment - EVT) và “trị liệu được hỗ trợ bởi thực nghiệm” (empirically supported treatment - EST). Những loại chữa trị “được thao tác hóa tăng cường” ấy (tạm dịch từ “promoted manualized treatments”), cùng với kiến thức và kỹ năng của nhà trị liệu, và những bản tự đánh giá về sức khỏe tâm lý (self-report ratings of psychological health) được xem là những chìa khóa cho việc trị liệu thành công. Qua thời gian, ngày càng có thêm nhiều bằng chứng được rút ra từ những nghiên cứu phân tích mêta (meta-analysis) và từ những công trình tổng quan trong tư liệu cho thấy những bằng chứng về những phương pháp có sai sót của những trào lưu EVT và EST. Thay vào đó, người ta cho rằng những yếu tố thuộc về thân chủ cùng mối quan hệ trị liệu là những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến kết quả thành công (Horvath & Bedi, 2002; Lambert & Barley, 2002).

Ron Levant, trong thời gian giữ chức Chủ tịch Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, đã khuyến khích việc phát triển việc thực hành dựa trên chứng cứ. Việc này thay thế cho những trào lưu EVT và EST và mở rộng hơn những hiểu biết về thế nào là “chứng cứ” của những kết quả trị liệu thành công. Levant (2005) đã khuyến khích những chuyên viên thực hành từ nhiều trường phái tiếp cận khác nhau tham gia vào cuộc thảo luận về việc nên định nghĩa như thế nào về khái niệm “thực hành dựa trên chứng cứ”. Đó chính là một mối bận tâm rằng nếu những nhà thực hành không tích cực tìm kiếm định nghĩa cho điều này một cách rộng rãi, thì có thể chấm dứt cách định nghĩa tương tự như trào lưu EST đã làm.

Một sự hiểu biết về thực hành dựa trên chứng cứ có thể bao gồm nhiều nguồn tri thức khác nhau (đó chính là tính đa nguyên về nhận thức luận) như những căn cứ cho việc thực hành tâm lý trị liệu. Nó cũng mở cửa cho những nghiên cứu định tính (qualitative research), hỏi ý kiến chuyên gia (expert opinion) và cho việc thiết lập một học thuyết làm nguồn hỗ trợ vững chắc cho tính hiệu quả của một mô thức trị liệu.

Sự ủng hộ cho khuynh hướng này cũng có thể được thấy trong việc thúc đẩy những nghiên cứu đa phương pháp (multimethod research). The American Psychological Association Press gần đây đã phát hành quyển sách đầu tiên về nghiên cứu đa phương pháp (Eid & Diener, 2005). Tương tự, những quyển sách khác gần đây cũng đã tìm kiếm cách thức phối hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng (Creswell, 2002; Tashakkori & Teddlie, 1998; Thomas, 2003). Ngoài ra, ngày càng có thêm những nhà nghiên cứu thừa nhận những hạn chế của việc nghiên cứu như một nguồn hiểu biết có tính khách quan để từ đó có thể khái quát hóa cho những con người và những hệ thống khác nhau.

HIỂU VỀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU DƯỚI MỘT “ÁNH SÁNG KHÁC”

Nhãn quan theo kiểu “hiện đại” (modernist perspective) hàm ý rằng việc trị liệu được lượng giá thông qua các nghiên cứu khoa học “khách quan” có thể xác định được hiệu lực của một phương thức trị liệu. Ngoài ra, xu hướng hiện đại cũng biện hộ rằng những phương thức trị liệu nào được ủng hộ về mặt thực nghiệm hẳn sẽ có vị trí ưu thế hơn. Xu hướng hậu hiện đại lại đưa loại tiền đề này đặt thành nghi vấn dựa trên một số căn cứ khác.

Trước tiên, xu hướng hậu hiện đại đặt nghi vấn về việc các nghiên cứu thực nghiệm liệu là có tính “khách quan” hay không. Sẽ thích hợp hơn nếu sử dụng nhiều loại nghiên cứu khác nhau để lượng giá nhiều loại liệu pháp khác nhau (Hoffman, 2005). Học thuyết cũng nên thường xuyên được đánh giá, nếu không các vấn đề nhận thức luận nẩy sinh có thể phương hại đến tính chắc chắn của nghiên cứu.

Thứ hai, trong khi các nhà tâm lý trị liệu đều chia sẻ mục đích chung là làm giảm triệu chứng, ít nhất ở một mức độ nào đó, và gia tăng chất lượng đời sống, thì họ lại không nhất trí về việc những mục đích ấy sẽ thể hiện ra như thế nào. Nói cách khác, không phải tất cả các nhà tâm lý trị liệu đều có cùng mục đích (Hoffman, 2005). Việc này gây ra rất nhiều khó khăn cho việc xác định liệu pháp nào tốt nhất cho thân chủ nào.

Mối lưu tâm thứ ba liên quan đến những giá trị của thân chủ. Nếu như những liệu pháp khác nhau có những giá trị khác nhau và dẫn đến những cách kết thúc khá khác nhau, khi ấy việc xác định liệu pháp nào tốt nhất cho thân chủ phần nào cũng là một quyết định về các giá trị (Hoffman, 2005). Nói cách khác, cả những giá trị lẫn tính hiệu quả đều cần phải được xem xét khi chọn lựa các tiếp cận trị liệu nào là tốt nhất.

Lĩnh vực tâm lý trị liệu thường trở nên có vẻ ngớ ngẩn khi nó bị lôi kéo vào những cuộc tranh biện vụn vặt về việc “cách tiếp cận trị liệu nào là tốt nhất”. Xu hướng hậu hiện đại đáp ứng lại bằng cách cho rằng đây thậm chí còn không phải là một câu hỏi đúng! Người ta không thể xác định được cách tiếp cận trị liệu nào là ưu thế vì nó còn tùy thuộc rất nhiều những yếu tố thuộc về thân chủ lẫn nhà trị liệu. Hơn nữa, trong khi những nhà tâm lý trị liệu tìm cách xác định phương pháp tiếp cận nào là tốt nhất, thì họ đã làm cho thân chủ bị mất đi trách nhiệm và áp đặt lên thân chủ những giá trị của nhà trị liệu. Thay vì thế, nhà trị liệu nên làm việc với thân chủ để giúp họ quyết định xem liệu pháp nào thích hợp nhất đối với những mục đích và giá trị của họ.

XU HƯỚNG HẬU HIỆN ĐẠI VÀ TÌNH TRẠNG CỦA THÂN CHỦ

Rollo May (1991) cho rằng một lý do hàng đầu khiến thân chủ tìm đến trị liệu hiện nay đó là việc mất đi những huyền thoại vốn là điểm tựa của họ (sustaining myths). Theo May, huyền thoại không phải là những điều sai, mà là những điều không thể chứng minh là đúng. Vì thế, tất cả những định hướng trong tâm lý trị liệu, những tín ngưỡng và thế giới quan, tất cả đều là những huyền thoại.

Ý tưởng này được áp dụng trực tiếp vào hoàn cảnh hậu hiện đại. Mặc dù hầu hết các thân chủ khi bước vào phòng trị liệu đều ít hiểu biết về hậu hiện đại, nhưng nó vẫn gây nên những ảnh hưởng trên đời sống hằng ngày của họ. Việc “giải kiến tạo hậu hiện đại những huyền thoại theo xu hướng hiện đại” (postmodern deconstruction of modern myths) gây nên cảm quan lo âu và mất ý nghĩa đối với nhiều người. Ngay cả khi hậu hiện đại là một xu hướng cải tiến hơn so với xu hướng hiện đại, sự chuyển tiếp này cũng gây nên nỗi lo âu một cách tự nhiên. Tuy nhiên, nỗi lo âu này cũng có thể vẫn tồn tại cả trong địa hạt cá nhân cũng như trong vô thức văn hóa.

Những nhà trị liệu làm việc với các thân chủ trong kỷ nguyên hậu hiện đại nên nhận thức về những ảnh hưởng của xu hướng hậu hiện đại, ngay cả khi những thân chủ của họ là những người nhiệt thành theo khuynh hướng hiện đại (modernist) hoặc “tiền hiện đại” (premodernist). Không ai có thể thoát khỏi những ảnh hưởng của sự chuyển đổi khuôn mẫu sống mạnh mẽ ấy.

HẬU HIỆN ĐẠI, QUYỀN LỰC VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Trong những cách thức tiếp cận trị liệu và tham vấn theo xu hướng hiện đại hoặc tiền hiện đại, nhà trị liệu có một vị thế đặc quyền. Chính nhà trị liệu là người quyết định kết quả trị liệu, định ra cách tiếp cận và dẫn dắt việc trị liệu. Theo nhãn quan này, có một sự chênh lệch đáng kể về mặt quyền lực giữa thân chủ và nhà trị liệu.

Xu hướng hậu hiện đại loại bỏ sự nhấn mạnh vào thứ bậc cao thấp, điều thường được ẩn chứa bên trong các liệu pháp theo xu hướng hiện đại và tiền hiện đại. Ngoài ra, các nhà trị liệu theo xu hướng hậu hiện đại thường tranh thủ các thân chủ để họ trở thành những người cùng làm việc (co-creator & co-facilitator) trong quá trình trị liệu. Tương tự như nhiều phương pháp tiếp cận có xu hướng bảo vệ nữ quyền (feminist approach), cách tiếp cận hậu hiện đại có khuynh hướng nhận diện hệ thống thứ bậc và sự chênh lệch quyền lực dựa trên một kiến tạo xã hội (social construction) hơn là một thực tại tuyệt đối (absolute reality). Vì thế, sự chênh lệch quyền lực vẫn có thể còn được khai thác và trong thực tế vẫn có tiềm năng xảy ra việc khai thác ấy.

Những ảnh hưởng từ các học thuyết về nữ quyền, học thuyết nhân văn và hiện sinh thì ít rõ ràng hơn trong những khái niệm của tâm lý trị liệu hậu hiện đại về quyền lực và thứ bậc. Tất cả các cách tiếp cận này đều thừa nhận rằng sự chênh lệch về mặt quyền lực chắc chắn sẽ phát triển và rằng điều quan trọng là nhà trị liệu cần phải nhận biết chúng, mặc dù vậy, họ khác nhau về quan điểm trong việc làm thế nào để tiếp cận được chúng. Nhiều nhà trị liệu tin rằng một phần của tiến trình trị liệu là phải “giải kiến tạo” (deconstructing) những cấu trúc thứ bậc và quyền lực do con người tạo ra này.

KẾT LUẬN

Xu hướng hậu hiện đại đang làm thay đổi thực tế của ngành tâm lý trị liệu theo nhiều cách thức mà thường chúng bị bỏ qua, không được nhận biết bởi những chuyên viên thực hành. Vì chúng ta vẫn tiếp tục tiến sâu vào kỷ nguyên hậu hiện đại, những ảnh hưởng này sẽ chỉ khiến những nhà trị liệu trở nên vô trách nhiệm nếu họ không hiểu được những thay đổi này.

References

  • Creswell, J. W. (2002). Research design: Qualitative, quantitative, and mixed methods approaches (2nd ed.). Thousand Oaks, CA: Sage.
  • Eid, M. & Diener, E. (Eds.). (2005). Handbook of multimethod research in psychology. Washington, DC: American Psychological Association.
  • Hoffman, L. (2004, August/September). The danger of the “truth.” AHP Perspectives, 22-24.
  • Hoffman, L. (2005). Depth psychotherapy and the empirically supported movement: Critical issues.  Retrieved from the Depth Psychotherapy Network web site: http://www.depth-psychotherapy-network.com/Professional_Section/Empirically/
  • Hoffman_EST_1.htm
  • Hoffman, L., Hoffman, J., Robison, B., & Lawrence, K. (2005, April). Modern and postmodern ways of knowing: Implications for therapy and integration. Paper presented at the Christian Association for Psychological Studies International Conferences, Dallas, TX.
  • Horvath, A. O. & Bedi, R. P. (2002). The allilance. Research summary on the therapeutic relationship and psychotherapy outcome. In J. C. Norcross (Ed.), Psychotherapy relationships that work (pp. 37-69). New York: Oxford University Press.
  • Lambert, M. J. & Barley, D. E. (2002). Research summary on the therapeutic relationship and psychotherapy outcome. In J. C. Norcross (Ed.), Psychotherapy relationships that work (pp. 17-32). New York: Oxford University Press.
  • Levant, R. (2005, Feb). Evidence-based practice in psychotherapy. Monitor on Psychology, 36, 5.
  • May, R. (1991). The cry for myth. New York: Delta.
  • Tashakkori, A. & Teddlie, C. B. (1998). Mixed methodology: Combining qualitative and quantitative approaches. Thousand Oaks, CA: Sage.
  • Thomas, R. M. (2003). Blending qualitative and quantitative research methods in theses and dissertations. Thousand Oaks, CA: Corwin Press.
  • Wampold, B. E. (2001). The great psychotherapy debate: Models, methods, and findings. Mahwah, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.


Added December, 2006
Never been updated




Thứ Năm, 7 tháng 12, 2017

TÂM LÝ TRỊ LIỆU LÀ GÌ? - ĐI TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA

BS NGUYỄN MINH TIẾN Tổng hợp


Tâm lý trị liệu (psychotherapy) là một hệ thống các kỹ thuật được thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân – những người được gọi là “thân chủ”. Những vấn đề này thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình. Tâm lý trị liệu nhắm đến giải quyết các vấn đề này, thông qua một số những phương pháp và kỹ thuật khác nhau; và chúng được thực hiện bởi những người gọi là “nhà trị liệu” (những chuyên viên được đào tạo về tâm lý trị liệu).

Các cuộc trị liệu thường bao gồm một (hoặc vài) nhà trị liệu và một (hoặc nhiều) thân chủ. Họ gặp nhau để bàn bạc, trao đổi, phát hiện ra những vấn đề gì mà thân chủ đang gặp phải và tìm kiếm cách thức nào để giải quyết chúng. Do những đề tài được bàn bạc trong các buổi trị liệu thường có tính chất nhạy cảm, nhà trị liệu phải có trách nhiệm (thường được pháp luật quy định) tôn trọng tính riêng tư và sự bảo mật cho thân chủ của mình.

Tâm lý trị liệu là phương pháp chữa trị các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương pháp sử dụng lời nói hoặc các công cụ giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những người làm tâm lý trị liệu phải được đào tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà tâm lý, bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm, nhân viên xã hội, điều dưỡng viên tâm thần hoặc các chuyên viên khác đang làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Trong quyển Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt xuất bản năm 2005 (Chủ biên: GS Ngô Gia Hy – NXB Y Học Tp.HCM) có định nghĩa về tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) như sau: “Điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc bằng các phương pháp tâm lý. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh” (Sách đã dẫn – tr.784).

Tâm lý trị liệu thực sự không phải là việc gì đó quá mới mẻ, xa lạ hoặc vượt quá tầm hiểu biết của tất cả chúng ta. Theo Alexander (Individual Psychotherapy; 1964):

"Bất kỳ ai đang cố gắng cảm thông với một người bạn đang đau khổ hoặc cố trấn an một đứa trẻ đang hoảng sợ, thì cũng có thể xem người ấy đang thực hành tâm lý trị liệu. Người đó đang cố gắng vận dụng các phương thức tương tác về mặt tâm lý để bảo tồn trạng thái thăng bằng về mặt cảm xúc ở một người khác. Những cách thức thông thường này chủ yếu được dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác hơn là sự hiểu biết có tính khoa học. Khi bạn đang nói chuyện với ai đó đang có tâm trạng phiền muộn, bạn cũng có thể tự nhiên hiểu được tác dụng tốt của việc giúp cho người ấy giải tỏa cảm xúc. Với một người đang trong trạng thái hoảng sợ, quẫn trí, bạn cũng có thể (bằng sự hiểu biết có tính trực giác) mang đến cho người ấy sự hỗ trợ về mặt cảm xúc bằng những lời khuyên và một thái độ vững chãi để người ấy có thể tin tưởng nương tựa vào bạn. Bạn vốn cũng có thể đã biết rằng khi một người đang bị chìm ngập trong một tình huống có tính nguy hiểm, đáng sợ thì người ấy không thể sử dụng được lý trí của mình một cách hiệu quả, và bạn cần giúp anh ta ổn định bằng cách nâng đỡ về mặt tâm lý. Trong lúc nói chuyện với người ấy về hoàn cảnh khách quan mà anh ta đang đương đầu, bạn có thể cho anh ta ‘mượn’ công cụ lý trí của chính bạn để sử dụng. Khi làm tất cả những việc này, chúng ta đã thực hành một sự phối hợp giữa hai công việc có tính chất chữa trị, một là nâng đỡ (supportive), hai là thấu hiểu (insight)."

Và Alexander đã định nghĩa tâm lý trị liệu “... không gì khác hơn ngoài việc áp dụng một cách có hệ thống, một cách có ý thức những phương pháp mà chúng ta áp dụng để ảnh hưởng lên những người sống xung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sự khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: nó không đơn thuần dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác mà thay vào đó là phải có sự thiết lập tốt các nguyên lý chung về tâm lý động học (psychodynamics)”. (Sđd. – tr.110).

Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người thân quen thường gặp trong đời sống, “sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đào tạo chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư” (Goffman; 1962).

Tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó “tự hiện thực hóa bản thân mình”. Có thể tóm tắt một số mục tiêu chính của tâm lý trị liệu như sau:

  • Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ
  • Tìm kiếm giải pháp cho các xung đột
  •  Gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ
  •  Giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn
  •  Giúp thân chủ củng cố một cái Tôi vững mạnh, toàn vẹn và an toàn

James C. Coleman (Abnormal Psychology and Modern Life; 1950) nêu ra một số bước cơ bản trong tiến trình làm tâm lý trị liệu như sau:

  • Tạo một bầu không khí quan hệ có tính trị liệu
  • Giải tỏa cảm xúc của thân chủ
  • Tạo sự thấu hiểu nơi thân chủ
  • Giúp thân chủ định hình lại cảm xúc
  • Kết thúc trị liệu

Từ thời cổ đại, Hippocrates (ông tổ của y học phương Tây) đã từng kể ra ba loại công cụ chủ yếu mà một người thầy thuốc có thể sử dụng để chữa bệnh, đó là: cây cỏ, con dao và lời nói. Từ cây cỏ có thể chiết xuất ra các dược liệu, từ con dao có thể cắt bỏ đi những phần cơ thể bị bệnh mà không thể giữ lại được, và từ đó đã dần dần hình thành nên các chuyên ngành nội khoa và ngoại khoa trong y khoa hiện đại. Song chỉ khi có sự hình thành và phát triển của ngành tâm lý học hiện đại và ngành tâm thần học hiện đại, giá trị của việc sử dụng lời nói trong chữa bệnh mới được phát huy thành một phương pháp trị liệu thực sự khoa học. Phương thức trị liệu ấy được một số nhà tiên phong trong lĩnh vực này (như Sigmund Freud chẳng hạn) gọi là “talking cure” nghĩa là sự chữa trị bệnh bằng lời nói – mà về sau trở thành chuyên ngành tâm lý trị liệu với rất nhiều trường phái và khuynh hướng khác nhau.

Điều gì đã giúp tạo nên hiệu quả của phép chữa trị ấy? Nhiều yếu tố giúp tạo nên hiệu quả của tâm lý trị liệu đã được nghiên cứu và thừa nhận như bản chất mối quan hệ trị liệu (Goldstein; 1962), sự hữu dụng của lời nói (Bernstein; 1965), lòng tin của người bệnh (hoặc thân chủ) đối với nhà trị liệu (Frank; 1961). Tuy vậy, tác động thực sự của tâm lý trị liệu vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi mãi cho đến hiện nay. Liệu rằng các cách thức chữa trị bằng lời nói có thực sự chữa trị được các chứng rối loạn tâm trí?

Trong thực tế, việc tranh luận về hiệu quả của tâm lý trị liệu phần lớn xảy ra trong giới chuyên môn, ngay cả giữa những người thực hành tâm lý trị liệu thuộc các trường phái và xu hướng khác nhau. Nhưng có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu chúng ta xem xét tác động của tâm lý trị liệu từ góc nhìn và vị thế của người bệnh hoặc thân chủ. Thân chủ không “nhìn thấy” những học thuyết và lý luận của nhà trị liệu, mà “nhìn vào” hành vi và thái độ ứng xử của nhà trị liệu. Và vì thế việc ai là nhà trị liệu trở thành điều có khi còn quan trọng hơn cả việc nhà trị liệu áp dụng học thuyết nào, phương pháp nào... Thực vậy, nhà trị liệu là người ở vào vị thế có ảnh hưởng lên trên thân chủ, mà nếu không có sự ảnh hưởng này, việc trị liệu sẽ không còn giá trị. Do vậy tâm lý trị liệu có thể được xem là “nghệ thuật tạo sự khích lệ, và kế đó là sử dụng tầm ảnh hưởng của nhà trị liệu lên thân chủ của mình một cách thuần thục” (Micheal Franz Basch).

Mặt khác, người ta khó có thể xác định được hiệu quả của tâm lý trị liệu, mà thay vào đó chỉ có thể xem xét được hiệu năng của nó, tức là việc tâm lý trị liệu tạo khả năng để có thể đạt đến một kết quả mong muốn. Hay nói theo cách của Gregory Bateson khi ông định nghĩa về "thông tin"; đó là “cung cấp một sự khác biệt để tạo nên một sự khác biệt” ("a difference that makes a difference"). Nhà tâm lý trị liệu không giúp thay đổi những sự kiện trong thực tế khách quan, mà nhắm đến việc thay đổi những gì xảy ra trong thực tại chủ quan của người bệnh hoặc thân chủ. Nói một cách hình tượng thì “nhà trị liệu mang thân chủ đến một điểm mà ở đó họ không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa” (Martin Seligman; 1975).

Có một sự mặc định trong việc hiểu rằng: nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thì làm việc với những người bệnh, những người bị rối loạn chức năng của bộ máy tâm trí, còn các chuyên viên tư vấn (counselor) thì làm công việc giúp đỡ những người đang gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, cả hai công việc tư vấn và trị liệu tâm lý đều cùng chia sẻ chung những học thuyết, lý luận, kỹ năng và phương pháp. Theo Jessie Bernard (1969), “tư vấn tâm lý giúp con người của thân chủ trở lại hòa hợp với số phận của họ, điều chỉnh bản thân họ khi sống đối mặt với những thất bại và đau khổ. Nhưng nếu những thân chủ ấy có những ứng xử không tuân theo các chuẩn mực hoặc có những rối loạn tâm trí nghiêm trọng, thì việc giúp đỡ những thân chủ ấy sẽ thuộc trách nhiệm của nhà tâm lý trị liệu”.

Theo James Bugental, Ph.D.(www.psychotherapy.net): 

"Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn suy nghĩ. Đó không hẳn là việc chữa lành một căn bệnh. Đó không phải là sự hướng dẫn của một nhà thông thái. Đó không phải là sự chia sẻ giữa hai người bạn thân. Đó cũng không phải là một quá trình học hỏi những kiến thức.

"Tâm lý trị liệu không liên quan đến những điều bạn suy nghĩ. Đó là sự làm việc trên cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó làm cho bạn chú ý đến cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó phân biệt rõ giữa những điều bạn đang suy nghĩ đến và cách thức mà bạn thực hiện sự suy nghĩ ấy. Tâm lý trị liệu ít quan tâm đến việc tìm kiếm những nguyên nhân để giải thích những gì bạn đang làm, nó quan tâm đến việc khám phá ý nghĩa từ những việc mà bạn đang làm.

"Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn nghĩ. Nó liên quan đến cách thức mà bạn sống với những tình cảm của mình. Nó liên quan đến những quan điểm bạn áp dụng vào trong những mối quan hệ của bạn với những người xung quanh. Nó liên quan đến những điều bạn muốn đạt đến trong đời và cách thức mà bạn cố gắng để đạt đến những mục đích ấy. Nó liên quan đến các nguồn lực giúp đỡ để bạn có thể tìm thấy những tiềm năng thay đổi trong con người bạn.

"Tâm lý trị liệu không liên quan đến điều bạn suy nghĩ là gì, nó liên quan đến cách thức mà bạn suy nghĩ..."


Một số thắc mắc thường gặp của bạn đọc khi tìm hiểu về công việc của người làm tâm lý trị liệu:

Tâm lý trị liệu là gì?

Tâm lý trị liệu là những can thiệp nhằm giúp đỡ những con người có vấn đề khó khăn về mặt tinh thần trong đời sống. Các can thiệp này được thực hiện bởi những người có kiến thức và kỹ năng chuyên biệt gọi là nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist). Mục đích của tâm lý trị liệu là nhằm hướng đến việc giúp cho thân chủ hoặc những người bệnh vơi nhẹ những trải nghiệm đau khổ, khó khăn về tinh thần và đồng thời càng lúc càng gia tăng những cảm nhận tích cực về cuộc sống và về bản thân.

Những can thiệp trị liệu bao gồm rất nhiều hình thức đi từ việc thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp, có tính hỗ trợ giữa nhà trị liệu và thân chủ, các buổi làm việc dựa trên đối thoại, giao tiếp giữa hai bên, tiến đến giúp thân chủ cải thiện chất lượng đời sống tinh thần, tăng trưởng bản thân, thay đổi hành vi, đồng thời giúp bảo tồn và phát triển các mối quan hệ trong đời sống của thân chủ.

Khác với người lớn, trẻ em là những con người đang phát triển. Nhiều chức năng cả về thể chất lẫn tâm lý vẫn đang trong tiến trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cho đến khi trẻ đến tuổi trưởng thành. Do vậy, những can thiệp hỗ trợ tâm lý cho trẻ em thường phải hướng đến việc giúp trẻ vừa đương đầu với các vấn đề khó khăn hiện tại, vừa giúp trẻ tiếp tục hoàn thiện các chức năng thể chất và tinh thần để thích nghi tốt hơn với đời sống. Hỗ trợ tâm lý cho trẻ em thường phải thực hiện song song với hỗ trợ tâm lý cho gia đình của trẻ; đôi khi phải kết hợp với việc đánh giá và điều trị các chứng bệnh về thể chất có liên quan hoặc đôi khi phải kết hợp với các phương pháp giáo dục chuyên biệt, nhất là ở những trẻ có tình trạng rối loạn phát triển.

Bất kỳ ai trong đời sống cũng có thể gặp phải những hoàn cảnh như vậy, đôi khi tạm thời, thoáng qua, đôi khi có thể tự mình nỗ lực khắc phục... Cũng có khi nhờ sự hỗ trợ tinh thần từ bạn bè, người thân mà những hoàn cảnh khó khăn kia dần dần được giảm nhẹ và người trong cuộc có thể vượt qua được. Tuy nhiên, một khi các nỗ lực cá nhân bị thất bại hoặc khi các nguồn lực hỗ trợ từ người thân, bạn bè không được hiệu quả, lúc ấy người gặp nan đề rất cần đến sự hỗ trợ chuyên nghiệp từ những nhà tâm lý trị liệu. Trong đời sống hiện đại ngày nay, những áp lực của đời sống ngày một gia tăng cùng sự thay đổi của cấu trúc gia đình sẽ kéo theo việc gia tăng khoảng cách giữa các thế hệ và làm giảm đi tính hữu hiệu của các nguồn lực hỗ trợ theo kiểu truyền thống (sự giúp đỡ từ người thân, gia đình, bạn bè...) do vậy sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu hỗ trợ tâm lý từ những nhà tham vấn và trị liệu tâm lý chuyên nghiệp.

Ai là thân chủ?

Một người trưởng thành có thể tìm đến tâm lý trị liệu khi người đó gặp phải các vấn đề khó khăn (nan đề) trong đời sống tinh thần. Trong các trường hợp ít nghiêm trọng, đó có thể là các nan đề hay xảy ra như: khó khăn khi quyết định một việc quan trọng, mâu thuẫn và xung đột trong các mối quan hệ, những trải nghiệm cảm xúc tiêu cực, đương đầu với những sự kiện quá mức chịu đựng, những trạng thái tinh thần quá căng thẳng, quá đau khổ sau những sang chấn, mất mát, hoặc đôi khi đó là những cảm giác bất an, lạc lõng, trống vắng, chán nản, mất phương hướng...

Trong các trường hợp nghiêm trọng hơn, người gặp khó khăn về tinh thần không chỉ đương đầu với các nan đề trong đời sống mà còn có thể bị rối loạn các chức năng của hoạt động tâm trí. Những rối loạn chức năng tâm trí ấy, nếu gọi tên theo cách định bệnh của ngành y khoa tâm thần, có thể kể ra một số trạng thái phổ biến sau đây: rối loạn lo âu, trầm cảm, rối loạn ám ảnh – cưỡng chế, ám ảnh sợ, lạm dụng chất gây nghiện (rượu, ma túy), các rối loạn nhân cách, và nặng hơn là các trường hợp loạn thần như loạn thần cấp hoặc tâm thần phân liệt chẳng hạn. Cũng có khi các rối loạn này biểu hiện thông qua những hành vi quá đáng, lệch lạc, gây nguy hại cho bản thân hoặc cho người khác như: bạo hành, lạm dụng tình dục, xâm hại trẻ em, tự sát, tự hủy hoại, hành vi bột phát trong giai đoạn khủng hoảng ở tuổi vị thành niên, các rối loạn ăn uống, các lệch lạc về khuynh hướng và sở thích tình dục, hành vi có tính nghiện ngập không phụ thuộc hóa chất ví dụ nghiện game, nghiện internet, nghiện bài bạc...

Trẻ em còn nhỏ có thể gặp nhiều tình trạng khó khăn khác nhau. Những trẻ mắc các chứng rối loạn phát triển có thể bị tình trạng chậm trễ trong phát triển những chức năng hoạt động tâm trí như trí tuệ, nhận thức, vận động, giao tiếp và quan hệ xã hội, khiến cho trẻ gặp nhiều trở ngại trong sinh hoạt, học tập và thích nghi với đời sống. Ở những trẻ có quá trình phát triển tốt, các trở ngại và khó khăn cũng có thể phát sinh khi trẻ sống trong môi trường gia đình có nhiều nguy cơ như quan hệ xung đột, bạo hành, sang chấn hoặc sự gắn bó về cảm xúc với người thân không đầy đủ hoặc không phù hợp. Tất cả các trường hợp trên đều cần đến những can thiệp hỗ trợ chuyên biệt về tâm lý.

Ai là nhà trị liệu?

Công việc của một nhà tâm lý trị liệu không giống như một bác sĩ y khoa, cũng không giống như một nhà giáo dục hoặc một nhân viên công tác xã hội, dù một số nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân ban đầu từ các ngành nghề trên.

Nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thường bị nhầm lẫn với một kiểu chuyên viên khác là bác sĩ tâm thần (psychiatrist). Cả trong cách gọi tiếng Việt lẫn tiếng nước ngoài (Anh hay Pháp) đều có thể khiến người ngoài ngành bị hiểu nhầm. Hai kiểu chuyên viên này đều đòi hỏi phải trải qua những quá trình đào tạo chuyên sâu của ngành nghề mà mình làm việc.

Một bác sĩ tâm thần trước tiên phải là một bác sĩ y khoa và được đào tạo chuyên sâu thêm về lĩnh vực sức khỏe tâm thần. Đa số bác sĩ tâm thần làm việc trong các cơ sở y tế, làm công việc khám và chữa trị cho những bệnh nhân mắc các chứng rối loạn tâm trí; đa phần sử dụng cách chữa trị y - sinh học nghĩa là dùng thuốc. Một số bác sĩ tâm thần được đào tạo chuyên sâu về tâm lý trị liệu có thể sử dụng các liệu pháp tâm lý để chữa trị cho những người có rối loạn chức năng tâm trí, khi đó họ đã đứng vào vị thế làm việc như một nhà tâm lý trị liệu. Có thể nói, tâm lý trị liệu (sử dụng các liệu pháp tâm lý) hoàn toàn khác về lý luận lẫn phương thức khi so sánh với việc can thiệp trị liệu theo kiểu y - sinh học, mặc dù cả hai cách thức can thiệp có khi nhằm vào việc giúp đỡ cùng những đối tượng giống nhau.

Nguồn "cung ứng nhân sự" quan trọng cho ngành tâm lý trị liệu chính là những nhà tâm lý lâm sàng (clinical psychologist). Tâm lý lâm sàng là lĩnh vực đào tạo chuyên sâu của tâm lý học; tuy dùng chữ "lâm sàng", nhưng những chuyên viên này là nhà tâm lý chứ không phải bác sĩ y khoa. Cách gọi "bác sĩ tâm lý" do vậy là cách gọi không đúng và dễ gây hiểu nhầm. Nhà tâm lý lâm sàng có thể làm việc trong những cơ sở chăm sóc hỗ trợ tâm lý hoặc làm việc chung với các bác sĩ tâm thần trong những trung tâm chăm sóc sức khỏe tâm thần theo kiểu phối hợp làm việc liên ngành để chữa trị các rối loạn tâm trí nghiêm trọng.

Nhà tâm lý trị liệu cũng có thể có nguồn gốc xuất thân từ những người thuộc hai lĩnh vực chuyên môn khác đó là: chuyên viên công tác xã hội lâm sàng (clinical social worker) và các chuyên viên giáo dục đặc biệt (special educator).

Cho dù xuất thân từ lĩnh vực chuyên môn nào, một nhà tâm lý trị liệu đều bắt buộc phải trải qua quá trình đào tạo và làm việc nhiều năm để có thể tác nghiệp hiệu quả trong lĩnh vực chuyên sâu này. Ở các quốc gia có ngành tâm lý trị liệu phát triển, việc đào tạo, chứng nhận hành nghề và quản lý hành nghề được thực hiện rất nghiêm túc và do các hội ngành nghề về tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu đảm nhận.

Trị liệu được tiến hành như thế nào?

Tâm lý trị liệu là một tiến trình làm việc giữa một (hoặc vài) nhà trị liệu với một (hoặc nhiều) thân chủ. Tiến trinh làm việc ấy bao gồm trong nhiều buổi gặp gỡ giữa hai bên, có những khuôn khổ quy ước về thời gian và nơi chốn, khảo sát các nhu cầu và định ra các mục tiêu hướng đến những thay đổi và những giải pháp cho các vấn đề khó khăn về tâm lý mà thân chủ đang gặp phải.

Tâm lý trị liệu nhắm đến việc xây dựng một mối quan hệ có tính hỗ trợ giữa nhà trị liệu và thân chủ, thông qua đó thực hiện các cuộc đối thoại giúp thân chủ đi sâu tìm hiểu, khám phá những khía cạnh trong đời sống tinh thần của mình cũng như trong các mối quan hệ của thân chủ với những người khác, tìm hiểu nguồn gốc các khó khăn trong đời sống hiện tại, từ đó có cách thức sống thích nghi hơn, hài hòa hơn giữa bản thân mình và cuộc sống xung quanh. Có thể xem đó là những tiến trình thay đổi bản thân, tiến trình học tập lại, tiến trình trải nghiệm lại, hoặc tiến trình tái kết nối và làm mới lại những mối quan hệ trong đời sống.

Ở thân chủ người lớn, các trao đổi giữa nhà trị liệu và thân chủ sẽ sử dụng phần lớn các kỹ năng giao tiếp bằng lời nói. Đối với trẻ em, nhà trị liệu có thể áp dụng các công cụ giao tiếp trung gian thay cho lời nói chẳng hạn như: chơi, vẽ tranh và các hoạt động khác.

Mỗi buổi gặp gỡ được gọi là một "phiên trị liệu" (session), thường diễn ra tại cơ sở làm việc của nhà trị liệu trong những khoảng thời gian được quy định trước. Thời gian cho mỗi phiên làm việc thay đổi tùy trường hợp.

- Phiên trị liệu cá nhân:
  Trẻ nhỏ: 45-60 phút
  Người lớn: 60-90 phút
- Phiên trị liệu gia đình: 90-120 phút
- Phiên trị liệu nhóm: 90-120 phút hoặc nhiều hơn

Một quá trình trị liệu (một liệu trình) có thể diễn ra ngắn ngày hoặc dài hạn là tùy thuộc vào bản chất của vấn đề, nhu cầu của thân chủ và khả năng đáp ứng của cơ sở trị liệu. Có thể thực hiện những liệu trình ngắn hạn (một đến vài phiên trị liệu) cho đến những liệu trình dài hạn (vài tháng đến vài năm; bao gồm rất nhiều phiên trị liệu).

Khoảng cách giữa hai phiên trị liệu có thể thay đổi tùy theo tính khẩn cấp của vấn đề nhiều hay ít; có thể từ mỗi tuần 2 lần; 1-2 tuần một lần hoặc lâu hơn.

Các công việc như đánh giá, phân tích nhu cầu và hoạch định mục tiêu thường xuyên được thực hiện trong suốt quá trình làm việc giữa nhà trị liệu và thân chủ để bảo đảm đáp ứng các nhu cầu và lợi ích của thân chủ. Tính minh bạch của các can thiệp từ nhà trị liệu cùng với mức độ sẵn lòng tham gia và thực hiện các thay đổi từ phía thân chủ sẽ là những nhân tố chính yếu quyết định sự thành công của tâm lý trị liệu.